Chương I
nhận thức cơ bản về đạo đức học mác - lênin
I. đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của đạo đức học
Đạo
đức có từ rất sớm, cùng với sự xuất hiện của xã hội con người, còn đạo đức học
với tư cách một khoa học nghiên cứu về đạo đức, một hệ thống lôgíc những tư
tưởng, quan niệm, quan điểm về những chuẩn mực đạo đức thì ra đời muộn hơn, gắn
liền với một trình độ phát triển nhất định của xã hội, của nhận thức. Để tìm
hiểu về đạo đức học trước tiên chúng ta cần nắm được một cách sơ bộ về đạo đức.
1. Đối tượng nghiên
cứu của đạo đức học
Từ xưa đến nay việc nghiên cứu đạo đức đã trở thành
một nội dung không thể thiếu của triết học. Mặc dù giữa các trường phái triết
học, các hệ thống đạo đức học luôn có những quan niệm khác nhau về đạo đức cũng
như cách tiếp cận đến nó, nhưng chúng đều có sự thống nhất ở chỗ là cố gắng chỉ
ra nguồn gốc, bản chất và quy luật của đạo đức trong đời sống đạo đức xã hội.
Nói cách khác, đạo đức học đã coi toàn bộ nền đạo đức xã hội là đối tượng
nghiên cứu với tư cách một hệ thống trọn vẹn, có lôgíc vận động, phát triển
riêng.
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học, các quá trình
phân ngành và hợp ngành diễn ra ở quy mô rộng rãi, mặt khác, do sự xâm nhập
mạnh mẽ của đạo đức vào mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, cho nên đạo đức đã được
nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu (sử học, dân tộc học, tâm lý học, xã
hội học, giáo dục học, giá trị học...). Song ở các ngành khoa học đó đạo đức
chỉ được nghiên cứu như yếu tố hợp thành đối tượng của chúng theo khả năng và
nhiệm vụ của mình, chứ không phải với tư cách một đối tượng độc lập. Chính vì
vậy, các khoa học đó chưa chỉ ra được bản chất, quy luật vận động và phát triển
của đạo đức như một tiểu hệ thống thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội.
Hiện nay, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, “đạo đức học là khoa học về bản chất của đạo
đức, về các quy luật xuất hiện và phát triển của lịch sử đạo đức, đặc biệt là
đạo đức cộng sản, về các chức năng đặc trưng của đạo đức, về các giá trị đạo
đức của đời sống xã hội”[1].
Tiếp nối truyền thống của lịch sử nghiên cứu về đạo
đức, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đạo đức là một hệ thống, hợp thành văn hóa
tinh thần của loài người, nó là sự phản ánh, cũng như được quy định bởi sự biến
đổi, phát triển và hoàn thiện của tồn tại xã hội. Đồng thời, trong quá trình
hình thành và phát triển của mình đạo đức luôn tồn tại như một hệ thống tương
đối độc lập, có quy luật phát triển và hoàn thiện riêng trên cơ sở tất yếu kinh
tế. Điều đó có nghĩa rằng, đạo đức có cuộc sống riêng, luôn vận động, phát
triển và chuyển hóa không ngừng với những quy luật, những hình thức và chất
lượng riêng được quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội con
người.
Đạo đức học Mác - Lênin luôn cố gắng vạch ra sự tồn
tại những quy luật trong sự vận động và phát triển không ngừng của đời sống đạo
đức xã hội. Cũng như những quy luật xã hội khác, các quy luật đạo đức mang tính
khách quan, thể hiện hết sức đa dạng và phức tạp. Đồng thời, những quy luật đạo
đức cũng có những đặc thù nhất định. Chúng được nảy sinh, tồn tại, phát triển
như một tất yếu từ trong lao động, từ quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội của
con người. Những quy luật đó phản ánh đời sống đạo đức hiện thực, phản ánh
những mâu thuẫn vốn có trong đời sống đạo đức của con người như: đức - tài; tốt
- xấu; hạnh phúc - bất hạnh; thiện - ác... Quy luật đạo đức còn chứa đựng những
giá trị đạo đức chung đã được xã hội thừa nhận, nó được thể hiện ra như những
biểu tượng soi sáng cho ý thức và hành vi đạo đức của con người. Nó luận chứng
cho tính tích cực hay tiêu cực của các giá trị đạo đức ấy. Do đó, nó có ý nghĩa
to lớn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện một đời sống đạo đức tiến bộ,
nhân đạo. Bởi vì, khi xây dựng cái thiện, cái tốt, vươn tới hạnh phúc thì con
người cũng luôn luôn phải kiên quyết đấu tranh chống cái ác, cái xấu, tránh
những cái bất hạnh. Chính vì vậy, đạo đức học Mác - Lênin gắn liền với việc
luận chứng khoa học cho sự ra đời và phát triển của đạo đức cộng sản chủ nghĩa,
một kiểu đạo đức tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại.
2. Nhiệm vụ
nghiên cứu của đạo đức học
Từ việc nghiên cứu đối tượng của đạo đức học Mác -
Lênin chúng ta có thể thấy rằng đạo đức học có vai trò to lớn trong đời sống xã
hội, nó góp phần biến đổi, cải tạo đời sống đạo đức của xã hội, phù hợp với nhu
cầu tiến bộ xã hội, với lợi ích của giai cấp công nhân. Để thực hiện vai trò đó
đạo đức học Mác - Lênin phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
a. Xác định
ranh giới, chỉ ra sự khác nhau về bản chất của các quan hệ đạo đức so với các
quan hệ xã hội khác.
Thực chất của nhiệm vụ này là làm sáng tỏ nội dung,
yêu cầu của những quan hệ đạo đức chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội phức
tạp. Bởi vì trong đời sống xã hội không thể có các quan hệ đạo đức thuần túy,
tách khỏi các quan hệ xã hội khác. Trên thực tế, chúng đan xen, quyện chặt vào
các quan hệ xã hội khác. Để nhận thức được những quan hệ đạo đức, khía cạnh đạo
đức, chúng ta phải tách chúng ra khỏi những hiện tượng xã hội, những quan hệ xã
hội khác, từ đó đi tìm cái sâu xa, bản chất của đạo đức nói chung. Do đó, đạo
đức học phải xác định cho được những tiêu chuẩn, những giá trị đặc trưng của
các quan hệ đạo đức. Ví dụ, trong quan hệ với quê hương, với thế hệ trước thì
phải biết "uống nước nhớ nguồn"; trong tình yêu phải thủy chung;
trong tình bạn phải tin nhau, trong sáng vô tư... Khi xác định chuẩn xác ranh
giới, mức độ khác nhau của các quan hệ đạo đức, đạo đức học cũng góp phần làm
cho các quan hệ đạo đức trở thành trong sáng, lành mạnh hơn, từng bước xây dựng
một đời sống đạo đức tốt đẹp trong xã hội bằng cách lên án, phê phán những thói
hư tật xấu, khuyến khích, ủng hộ những cái thiện, cái tốt. Điều này cho phép
đạo đức học Mác - Lênin kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức tiến bộ, tốt đẹp
và phổ biến trong đời sống tinh thần của xã hội, kết hợp giá trị đạo đức truyền
thống với giá trị đạo đức của thời đại.
b. Vạch rõ
tính tất yếu, nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, quy luật hình thành và
phát triển của đạo đức trong đời sống xã hội.
Căn cứ vào thực tế khách quan, đạo đức học Mác - Lênin
cần vạch ra nội dung, nguồn gốc, bản chất của những quan hệ đạo đức trong mỗi
thời đại. Đạo đức học Mác - Lênin khẳng định thực tiễn xã hội là cơ sở quy định
nhu cầu và tiến bộ của đạo đức. Cội nguồn của đạo đức là từ những hoạt động
thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, hướng tới sự tiến bộ xã hội, sự
sáng tạo ra những giá trị tốt đẹp cho con người, cho xã hội. Đó là quy luật
sinh thành, phát triển những quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội. Đạo đức bao
giờ cũng là sự phản ánh đời sống hiện thực, bảo vệ những quan hệ hiện thực của
con người. Chẳng hạn, thực chất đạo đức phong kiến là sự bảo vệ cho chế độ
phong kiến; còn đạo đức tư sản nhằm mục đích bảo vệ chế độ sở hữu tư bản tư
nhân, duy trì việc sản xuất và kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Nói cách
khác, cần xem xét, đánh giá các hiện tượng đạo đức một cách khách quan, nhằm
thấy được nội dung tiến bộ và những giá trị tích cực của chúng. Bởi vì các
chuẩn mực đạo đức, thang giá trị của đạo đức luôn biến đổi trong mỗi thời đại
lịch sử. Chỉ có như vậy, đạo đức học mới góp phần lọc bỏ, kế thừa, phát huy
những di sản đạo đức của quá khứ cho phù hợp với những chuẩn mực của thời đại
mới.
c. Góp phần
hình thành đạo đức mới trong đời sống xã hội, bảo vệ và phát triển những giá
trị đạo đức cộng sản chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng,
tàn dư đạo đức cũ, những biểu hiện đạo đức không lành mạnh, đi ngược lại lợi
ích chân chính của người lao động.
Đạo đức học phải luận chứng cho tính tất yếu, vai trò
tích cực hay tiêu cực của các giá trị đạo đức. Nó đòi hỏi phải phê phán có sự
lọc bỏ đạo đức của các giai cấp bóc lột, đồng thời phải khẳng định những giá
trị đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản. Đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản,
đạo đức Mác - Lênin mang tính chuẩn mực và phải được luận chứng bằng khoa học,
từ đó mới có thể đưa ra được những phương pháp tích cực nhằm xây dựng và phát
triển đạo đức mới, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Đạo đức học Mác - Lênin góp phần giáo dục, tuyên
truyền phổ biến để mọi người tự giác, tự nguyện thực hiện những chuẩn mực đạo
đức tiến bộ trong xã hội. Trong điều kiện tác động phức tạp của nền kinh tế thị
trường, cuộc đấu tranh nhằm xây dựng đạo đức mới diễn ra rất gay gắt, cần vũ
trang bằng thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng mác xít, phải
quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, toàn diện, quan
điểm thực tiễn, quan điểm giai cấp để nghiên cứu đạo đức. Cần dựa vào thành tựu
của các khoa học xã hội khác có liên quan để xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách
mạng.
3. Phương
pháp nghiên cứu của đạo đức học
Lý luận đạo đức học trước Mác đều dựa vào quan điểm
duy tâm, siêu hình để giải thích các hiện tượng đạo đức. Hêghen cho rằng bản
nguyên tinh thần, đạo đức có trước và quy định thế giới vật chất. Chủ nghĩa
Đácuyn xã hội coi đạo đức là một hiện tượng tự nhiên, sinh vật, có tính bản
năng. Học thuyết Kitô giáo coi đạo đức là lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Tuy
có những tiến bộ nhất định, nhưng lý luận của L.Phoiơbắc về đạo đức vẫn mang
tính chất siêu hình, phi lịch sử. Cũng giống như tất cả những lý luận trước đó,
nó được gọt cho thích hợp với mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh và chính
vì thế nó được áp dụng ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào đối với thế giới hiện thực.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu đạo đức tức là
nghiên cứu hệ thống những quan hệ đạo đức, một kiểu quan hệ xã hội của con
người được hình thành, vận động và phát triển trên cơ sở những quan hệ kinh tế
nhất định. Hệ thống những quan hệ này lại nằm trong mối liên hệ phổ biến, trong
sự vận động và phát triển không ngừng. Do đó, đạo đức học Mác - Lênin trước hết
lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở cho sự nghiên
cứu của mình. Phương pháp đó cho phép xem xét đạo đức trên cơ sở của những quan
hệ kinh tế, bị quy định bởi những quan hệ sản xuất nhất định. Đó là cách tiếp
cận mang tính duy vật, là sự giải thích đời sống đạo đức của xã hội bằng những
mâu thuẫn của đời sống vật chất, những xung đột hiện thực giữa các lực lượng
sản xuất với những quan hệ sản xuất. Nói cách khác, nó cho phép khẳng định sự
vận động, phát triển của đạo đức trong đời sống xã hội tuân theo những quy luật
khách quan. Đạo đức học Mác - Lênin phản ánh những quy luật tất yếu đó; giải
thích sự hình thành các chuẩn mực và giá trị đạo đức, cơ chế vận hành đạo đức,
sự tác động của đạo đức đến hiện thực khách quan. Việc vận dụng phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nghiên cứu đạo đức cho phép đạo
đức học Mác - Lênin có thể khắc phục có hiệu quả những hạn chế, sai lầm mang
nặng tính duy tâm, thần học, kinh nghiệm hay duy lý cực đoan của các khuynh
hướng đạo đức học phi mácxít hiện nay.
Mặt khác, với tư cách là một khoa học xã hội và nhân
văn, đạo đức học gắn bó chặt chẽ với rất nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân
văn khác, như: luật học, mỹ học, chính trị học, giáo dục học, tâm lý học... Nó
kế thừa những thành tựu và sử dụng những phương pháp nghiên cứu chung của các
ngành khoa học đó trong sự nghiên cứu của mình. Thực tế, để nghiên cứu đối
tượng của mình, đạo đức học Mác - Lênin thường sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh... Đây là những phương pháp được rất nhiều ngành khoa học
sử dụng, nhờ đó có thể vạch rõ bản chất, lôgíc của các hiện tượng đạo đức trong
tiến trình lịch sử và trong mối liên hệ phức tạp với các hiện tượng xã hội muôn
hình muôn vẻ khác. Bởi vì, đạo đức luôn là một hiện tượng mang tính lịch sử sâu
sắc, nó có quá trình phát sinh, phát triển gắn liền với những giai đoạn lịch sử
nhất định. Mỗi hiện tượng đạo đức hiện thực đều có cội nguồn từ quá khứ, từ
truyền thống lịch sử; đồng thời, nó lại là cơ sở, là tiền đề cho sự phát triển
của đạo đức trong tương lai. Hơn nữa, ngay bản thân một hiện tượng đạo đức nhất
định cũng có sự thể hiện rất đa dạng, phong phú khi gắn với những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định. Việc so sánh, đối chiếu các hiện tượng đạo đức là vô cùng
cần thiết để hiểu thực chất của nó. Ngoài phương pháp lịch sử, phương pháp so
sánh, đạo đức học Mác -Lênin còn sử dụng một số phương pháp chung khác.
II. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của
đạo đức
1. Đạo đức và vai trò của nó trong đời
sống xã hội
a. Khái niệm đạo đức
Từ lâu con người đã nghiên cứu về đạo đức và đưa ra
nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức. ở phương Đông cổ đại, vấn đề đạo đức được
bàn luận khá sớm trong triết lý nhân sinh của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Chẳng hạn, ở Trung Quốc cổ đại, thuật ngữ đạo đức được tạo nên do sự kết hợp
của hai thuật ngữ riêng lẻ là “đạo” và “đức”. "Đạo", theo Lão Tử, có
nghĩa là con đường, đường đi, cũng có nghĩa là con đường của tự nhiên, là cái
lẽ tự nhiên, là nguồn gốc của vạn vật và là đường sống của con người trong xã
hội. Đạo người không thể làm điều gì trái với bản tính tự nhiên, trái với quy
luật của tự nhiên. “Đạo” sinh ra vật nhưng làm cho sự vật nào thành ra sự vật
ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do “đức”. “Đức” là biểu hiện cụ thể của đạo
trong từng sự vật. Đức chứa đựng nó, làm cho nó lớn lên, sống động, hiện ra
hình thành chất, nuôi nấng, chở che cho nó.
Khái niệm “đức” lần đầu tiên được xuất hiện trong sách
Kim văn của nhà Chu, với nghĩa là nhân đức, đạo nghĩa, là những nguyên tắc luân
lý chung. Nho giáo đã bàn nhiều về “đạo” của người quân tử. Để giữ được “tam
cương” (ba quan hệ cơ bản: vua tôi, cha con, chồng vợ), “ngũ thường” (năm đức
tính cơ bản là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), để giữ được “vương đạo” thì con
người phải thực hiện “chính danh”, trở về trật tự, lễ nghĩa của nhà Chu. Khổng
Tử, người khởi xướng trường phái Nho gia, đã cho rằng, để biến xã hội Trung Hoa
cổ đại từ “đại loạn” thành “đại trị”, phải dùng “đức trị” hay, “lễ trị”.
"Lễ" được hiểu không chỉ là những biểu hiện của nghi lễ, vương đạo
nhà Chu mà còn là những quy phạm đạo đức, lối sống có văn hóa nói chung của con
người. Như vậy, đạo đức được người Trung Hoa cổ đại lý giải hết sức thâm thúy,
đó là những nguyên tắc sống chung mà mỗi con người cũng như toàn xã hội bắt
buộc phải tuân theo.
ở phương Tây, thuật ngữ đạo đức xuất phát từ gốc chữ La tinh
mos (moris) có nghĩa là lề thói. Từ đó đã nảy sinh thuật ngữ moralis - nghĩa là
có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn “luân lý” thường được dùng cùng nghĩa
với thuật ngữ “đạo đức” lại xuất phát từ chữ Hy Lạp là ethos hay ethicos với
nghĩa là nơi ở, chỗ ở chung. Về sau nó có thêm các nghĩa thói quen, tính cách,
lối suy nghĩ, lề thói, tập tục, biểu hiện mối quan hệ giữa người và người trong
quan hệ hàng ngày. Thuật ngữ ethica (ethicos) - nghĩa là khoa học về đạo đức
hay đạo đức học, được dùng phổ biến cho đến ngày nay, là do Arixtốt đưa ra nhằm
phân biệt với thuật ngữ đạo đức (moral).
Kế thừa có phê phán các quan niệm trước đây, chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng, đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
xã hội ra đời từ nhu cầu của cuộc sống con người, nhằm điều chỉnh và đánh giá
hành vi ứng xử của con người trong mối quan hệ với người khác và với xã hội
trên cơ sở của niềm tin cá nhân, của truyền thống và của dư luận xã hội.
Theo cách hiểu trên, khi nói đến đạo đức chúng ta cần
chú ý đến những điểm cơ bản sau đây:
- Đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, là một hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực xã hội ra đời từ cuộc sống của con người.
Xét về nội dung, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, bị
quy định bởi tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội biến đổi thì đạo đức sớm muộn
cũng biến đổi theo. Đạo đức chẳng qua là tồn tại được nhận thức; tồn tại xã hội
là cái thứ nhất, cái xuất phát, còn đạo đức là cái thứ hai, cái phát sinh.
Những thời đại khác nhau có hệ thống đạo đức khác nhau vì con người tồn tại
trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau. Điều đó chứng tỏ vì sao những quan niệm
về thiện và ác, về nghĩa vụ, lương tâm, ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc lại khác
nhau, đối lập nhau ở những con người, cá nhân, thời đại hay những cộng đồng
khác nhau.
Nội dung của đạo đức được thể hiện dưới những hình
thức hết sức phong phú: những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, những chuẩn mực
quy định hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, như
trong lao động, nghỉ ngơi, giải trí, hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật,
tôn giáo... Hệ thống những chuẩn mực của hành vi đạo đức được hình thành trên
cơ sở tư tưởng, quan điểm, khái niệm, kinh nghiệm đạo đức nhất định. Ví dụ,
những chuẩn mực về thiện và ác để đánh giá các hành vi đạo
đức nào đó không thể tách rời những quan niệm, kinh nghiệm về thiện và ác trong
mỗi thời đại.
Như vậy, đạo đức là một hiện tượng tinh thần, là yếu
tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng, một hình thái ý thức xã hội. Đạo đức được
phát sinh, phát triển và chuyển hóa về mặt nội dung của nó là tùy thuộc vào sự
biến đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội, trước hết là do sự biến đổi của phương
thức sản xuất. Chẳng hạn, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì
cũng xuất hiện đạo đức của các giai cấp thống trị như đạo đức chủ nô, đạo đức
phong kiến, đạo đức tư sản. Khi xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng của
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được ra đời thì cũng dần dần hình thành một
kiểu đạo đức mới dựa trên tính tập thể, tình đồng chí, tinh thần đoàn kết, hợp
tác, tương trợ của những người lao động được làm chủ.
- Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi con người.
Khác với động vật, con người
luôn tồn tại trong cộng đồng xã hội, mỗi cá nhân vừa tồn tại độc lập, vừa phụ
thuộc lẫn nhau, gắn bó chặt chẽ với cộng đồng (gia đình, giai cấp, dân tộc và
xã hội). Mối quan hệ giữa các cá nhân và cộng đồng được hình thành trên nền
tảng lợi ích. Nó được coi là nguyên nhân thực tại của các hoạt động xã hội, là
cơ sở của các kích thích trực tiếp - những động cơ, những tư tưởng... của các
cá nhân, các nhóm xã hội và giai cấp tham gia vào những hoạt động ấy. Về mặt
bản chất, lợi ích chính là một quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới
bên ngoài với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thỏa mãn
nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Lợi ích là cơ sở cho quan hệ gắn bó cá nhân và xã
hội, là cái tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và cộng
đồng. Lợi ích rất đa dạng và ngày càng phát triển về lượng và chất nhưng về cơ
bản có thể tách ra thành lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Thực ra để điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
xã hội, loài người đã sử dụng nhiều phương thức khác nhau như phong tục, tập
quán, tôn giáo, kinh tế, đạo đức... Tất cả những phương thức điều chỉnh ấy đều
nhằm chỉ ra giới hạn được phép và không được phép trong hành vi của các cá
nhân, nhằm bảo đảm lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của cộng đồng xã hội. Đạo đức
chỉ là một trong những phương thức bảo đảm sự thống nhất, sự hài hòa giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội trong mọi hoạt động của các cá nhân cũng như của
các cộng đồng người. Thực chất của phương thức điều chỉnh bằng đạo đức là ở chỗ
để bảo vệ lợi ích của mình, của xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết tôn trọng,
khẳng định và bảo vệ lợi ích xã hội. Đòi hỏi đó được biểu hiện cụ thể ở sự phản
đối, cấm kỵ đối với những hành vi xâm phạm, phá hoại lợi ích xã hội; khuyến
khích, ủng hộ đối với những hành vi khẳng định lợi ích xã hội.
Những nội dung trên được thể hiện trong ý thức xã hội
với tư cách là những quan niệm, quan điểm, khái niệm, kinh nghiệm, trong các
nguyên tắc, chuẩn mực hành vi, trong các xúc cảm, tình cảm, thuộc tính và trạng
thái tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân. Hiệu lực của điều chỉnh đó được đảm bảo
bằng dư luận xã hội. Những ý nghĩ, hành vi trái với lợi ích xã hội bị dư luận
xã hội phê phán, lên án; những hành vi khẳng định lợi ích ấy được ủng hộ,
khuyến khích, khen ngợi. Dư luận xã hội hướng dẫn các cá nhân hoạt động trong
phạm vi được phép, tránh những hành vi không được phép. Tất cả những đòi hỏi ấy
là sự phản ánh tính tất yếu của lợi ích xã hội mà hành vi của các cá nhân bắt
buộc phải tuân theo. Như vậy, tính xã hội và tính tự giác là nét tiêu biểu, đặc
trưng của ý thức đạo đức ở mỗi con người.
Mỗi cá nhân phải đáp ứng yêu cầu tất yếu của xã hội,
phải nhận thức được tính tất yếu của lợi ích xã hội và cách thức hiện thực hóa
tất yếu ấy nhờ giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội. Người
ta gọi đây là quá trình chuyển ý thức đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá
nhân. Cá nhân phải biến những đòi hỏi của xã hội thành những nhu cầu, mục đích,
hứng thú trong hoạt động của mình nhằm xác định đồng thời cả lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội. Do vậy, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự nguyện, tự giác,
là sự tự đấu tranh giữa các động cơ bên trong của con người.
Trong thực tế các cá nhân có thể đáp ứng hay không đáp
ứng những đòi hỏi của xã hội, do nguyên nhân tự giác hay không tự giác, cho nên
cá nhân phải lắng nghe sự đánh giá của dư luận xã hội về những ý nghĩ và hành
động của mình, từ đó tự điều chỉnh hành vi nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội,
được dư luận ngợi khen và ủng hộ. Từ lôgíc trên có thể thấy, hành vi đạo đức là
hành vi mang nội dung tất yếu, đồng thời cũng là hành vi tự do của cá nhân. Tự
do là thuộc tính đặc trưng dùng để phân biệt sự điều chỉnh đạo đức với những sự
điều chỉnh khác, chẳng hạn như điều chỉnh bằng pháp quyền gắn liền với sự bắt
buộc, sự cưỡng chế từ phía nhà nước, hay sự điều chỉnh của tôn giáo thì phải
dùng tới sức mạnh của thần quyền...
Như vậy, điều chỉnh đạo đức được thực hiện trong mối
liên hệ giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân và xã hội, nhằm bảo đảm sự hài hòa
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội và hướng tới thực hiện nguyên tắc ưu
tiên cho lợi ích xã hội, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Đạo đức là
một hệ thống giá trị.
Giá trị là khái niệm của triết học và đạo đức học để
chỉ tầm quan trọng có tính chất khẳng định hay phủ định của khách thể nào đó,
khác với những đặc tính tồn tại và chất lượng của khách thể này; là khía cạnh
chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá của các hiện tượng ý thức xã hội. Khoa học giá
trị đã phân loại các hiện tượng giá trị trên các lĩnh vực của đời sống xã hội:
các giá trị vật chất và tinh thần, giá trị sản xuất - tiêu dùng (giá trị vật
chất), giá trị xã hội (chính trị, nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo)...
Trong đời sống đạo đức của xã hội cũng có một hệ thống các giá trị nhất định.
Hệ thống giá trị đạo đức luôn có tính phân cực rõ rệt, ví như thiện và ác, hạnh
phúc và bất hạnh, lương tâm và vô lương tâm... Gắn liền với một hệ thống giá
trị, cho nên đạo đức thể hiện ra như là một hiện tượng ý thức xã hội mang tính
chuẩn mực, mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt.
Cơ sở quy định hệ thống những giá trị đạo đức, xét cho
cùng, là những lợi ích nhất định của con người, của xã hội. Xuất phát từ những
tồn tại xã hội khác nhau, con người đã tạo ra những hệ thống giá trị đạo đức
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nếu hệ thống giá trị dựa trên khẳng định
những lợi ích góp phần duy trì sự tồn tại, phát triển cá nhân, cộng đồng người
nhất định, phù hợp với xu thế phát triển lịch sử thì nó mang tính tích cực,
tiến bộ, nhân đạo. Ngược lại thì hệ thống đó mang tính tiêu cực, phản động,
phản nhân đạo. Sự hình thành và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức luôn gắn
liền với hệ thống giá trị văn hóa của xã hội, với sự hoàn thiện nhân cách của
những cá nhân. Con người có nhân cách là người vừa tự giác vươn lên chiếm lĩnh
những đỉnh cao trong thang giá trị đạo đức của xã hội, đồng thời là người sáng
tạo ra những giá trị đạo đức mới cho xã hội.
b. Cấu trúc của đạo đức
Đạo đức là một lĩnh vực của xã hội loài người, phụ
thuộc vào hệ thống xã hội, nhưng đồng thời bản thân nó lại có tính tương đối
độc lập và có một cấu trúc khá phức tạp bao gồm nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ
với nhau. Từ các góc độ xem xét khác nhau người ta có thể tách ra những yếu tố
cơ bản trong cấu trúc của đạo đức như sau:
* Quan hệ đạo đức
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định
giữa con người và con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Như đã
biết, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội, các quan hệ đạo
đức chỉ là một dạng quan hệ xã hội. Trong xã hội có nhiều quan hệ đạo đức, như
quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình, trong tập thể; quan hệ cá nhân và xã
hội trên nhiều lĩnh vực khác nhau như quan hệ bạn bè, đồng chí, quan hệ nam
nữ... Những quan hệ này hình thành, phát triển một cách tất yếu xuất phát từ
những nhu cầu khách quan của đời sống đạo đức xã hội. Con người sống trong xã
hội bao giờ cũng có những mối quan hệ nhất định với người khác, với cộng đồng,
với xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ ấy, con người phải có những cách ứng
xử phù hợp, phải tuân theo những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực được xã hội
thừa nhận chung. Chẳng hạn, quy tắc ứng xử trong gia đình đòi hỏi con cái phải
có hiếu với cha mẹ, vợ chồng phải chung thủy với nhau, cha mẹ phải có nghĩa vụ
với con cái, anh em phải thương yêu lẫn nhau... Những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực đó phù hợp và đáp ứng các mối quan hệ xã hội, nhằm tạo ra sự ổn định và
phát triển không ngừng của xã hội. Nói cách khác, những quan hệ đạo đức tồn tại
một cách khách quan và luôn luôn biến đổi cho phù hợp với nhu cầu của các thời
đại lịch sử. Những quan hệ đạo đức là một trong những cơ sở để hình thành ý
thức đạo đức.
* ý thức đạo
đức và thực tiễn đạo đức
- ý thức đạo
đức bao gồm toàn bộ ý thức về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực hành vi
phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Đó là toàn bộ những tri
thức và những xúc cảm, tình cảm đạo đức của con người. ý thức đạo đức thể hiện
thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với
hệ thống chuẩn mực và quy tắc đạo đức được xã hội thừa nhận. Trong quan hệ giữa
người và người về mặt đạo đức bao giờ cũng chứa đựng và thể hiện những giá trị
đạo đức nhất định, trước hết là giá trị thiện và ác. Giá trị thiện cũng có
nhiều mức độ, thang bậc phù hợp với thời đại, với sự biến đổi của lịch sử.
Ngoài yếu tố tri thức, trong ý thức đạo đức còn có yếu tố xúc cảm, tình cảm.
Xúc cảm, tình cảm đạo đức gồm sự thương yêu, lòng vị tha, chủ nghĩa nhân đạo,
động cơ của hành vi.
ý thức đạo đức giúp cho con người tự giác điều chỉnh
hành vi, hoàn thành một cách tự nguyện, tự giác nghĩa vụ đạo đức của mình trước
xã hội. Vì thế, ý thức đạo đức là tiêu chuẩn giá trị cao nhất tạo nên bản chất
đạo đức của con người. Nó soi sáng hành vi đạo đức và hướng dẫn việc thực hiện
đạo đức của con người.
- Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của ý thức
đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong đời sống, hay nói cách
khác, đó là thực hành đạo đức. Đây cũng là biểu hiện sinh động nhân cách của
con người vì không có thực tiễn đạo đức thì ý thức đạo đức không thể sáng tạo
ra giá trị và không đạt tới giá trị của xã hội. Vai trò của thực tiễn đạo đức
là vô cùng quan trọng, bởi vì không thể có được tinh thần đạo đức tiến bộ nếu
người ta không dám hành động. ý thức đạo đức tuy có vai trò cốt yếu trong việc
xác định ranh giới giữa động cơ hoạt động đạo đức và hành vi hành động đạo đức
của con người, nhưng nếu chỉ dừng ở ý thức, tư tưởng không thôi thì nó sẽ không
có ý nghĩa, sẽ rơi vào trừu tượng, giáo điều, nói không đi đôi với làm. Chẳng
hạn, khi người ta tích cực lao động với chất lượng, năng suất và hiệu quả thì
cả ý thức và hành vi đều hướng vào cái thiện.
Như vậy, thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo
đức của con người được nảy sinh trên cơ sở của ý thức và tình cảm đạo đức, qua
đó đạo đức đem lại lợi ích cho xã hội, tạo ra cái thiện, ngăn chặn cái ác. ý
thức đạo đức luôn gắn liền với thực tiễn đạo đức, lời nói đi đôi với việc làm.
Giữa chúng có quan hệ biện chứng, bổ sung cho nhau để tạo ra bản chất đạo đức
của con người, của một giai cấp, của một chế độ xã hội và thời đại lịch sử. Đạo
đức là sự thống nhất giữa ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức, thống nhất giữa
nói và làm, giữa động cơ, mục đích và hành vi. Tất nhiên, giữa ý thức đạo đức
và thực tiễn đạo đức, giữa giá trị và hành vi bao giờ cũng có một ranh giới
nhất định.
* Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân
Trong xã hội, đạo đức luôn gắn với những chủ thể của
hành vi đạo đức nhất định vì thế có thể phân ra thành đạo đức cá nhân và đạo
đức xã hội. Đây là biểu hiện cho sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa
tính phổ biến, tính đặc thù và tính đơn nhất của đạo đức trong đời sống xã hội.
Đạo đức xã hội là đạo đức của cộng đồng người xác
định, phản ánh chính tồn tại xã hội của họ, cho nên nó tồn tại khách quan. Đây
là phương thức điều chỉnh ý thức và hành vi của các cá nhân trong cộng đồng
nhằm củng cố, phát triển cả hệ thống xã hội nhất định. Nó tồn tại, biểu hiện
như hệ thống những kinh nghiệm xã hội, hệ thống giá trị mang tính phổ biến của
đời sống đạo đức. Hệ thống ấy dựa trên một nền tảng quan hệ lợi ích chung của
cộng đồng.
Còn đạo đức cá
nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ, phản ánh sinh động hoàn cảnh sinh
sống của những cá nhân, phản ánh lợi ích cũng như hoạt động riêng của các cá
nhân trong một xã hội nhất định. Đạo đức cá nhân biểu hiện tính độc đáo của đạo
đức xã hội và không thể hoàn toàn quy về đạo đức xã hội. Những giá trị đạo đức,
chẳng hạn như cái thiện và cái ác, đều được tạo thành từ những cá nhân thuộc
về những tập đoàn, những giai cấp nhất định, gắn chặt với ham muốn, mục đích,
với lẽ sống của họ.
Giữa đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân có quan hệ biện
chứng với nhau. Đạo đức xã hội không thể là con số cộng giản đơn của đạo đức cá
nhân mà kết tinh, tổng hợp những giá trị đạo đức cá nhân. Nó phản ánh nhu cầu,
lợi ích chung của cả cộng đồng nên có tính cộng đồng rộng rãi, tính giai cấp,
tính nhân loại, mang hơi thở của thời đại. Đạo đức xã hội được duy trì, củng cố
nhờ phong tục, tập quán, truyền thống, hòa quyện vào những di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể trong nền văn hóa chung của mỗi dân tộc, cũng như của toàn
nhân loại.
Những cá nhân luôn tồn tại trong môi trường kinh tế,
chính trị, thuộc về giai cấp nhất định với những ý thức, ý chí, tình cảm của
riêng họ, cũng là biểu hiện tâm lý giai cấp, tâm lý xã hội. Các cá nhân luôn
tìm cách chiếm lĩnh những giá trị đạo đức xã hội, đồng thời cũng không ngừng
đóng góp những giá trị mới vào đời sống đạo đức xã hội. Thực tế, trong những
hành vi đạo đức của các cá nhân luôn có những sự tác động đối lập, thậm chí có
thể triệt tiêu lẫn nhau trong việc sáng tạo ra các giá trị đạo đức chung cho xã
hội. Nhờ có giáo dục của một giai cấp mà tạo ra những chủ thể đạo đức, bộ mặt
đạo đức của những cá nhân và hướng họ tham gia vào cuộc đấu tranh giai cấp bằng
đạo đức của mình. Do đó, mỗi kiểu đạo đức cá nhân là sản phẩm, phản ánh bản
chất xã hội và gắn liền với kiểu đạo đức xã hội nhất định.
c. Vai trò
của đạo đức trong đời sống xã hội
Cách đây hàng ngàn năm vấn đề đạo đức của con người
đã được các nhà triết học đưa ra bàn bạc. Khổng Tử (VI tr. CN)
không phải là người đầu tiên bàn đến đạo đức, nhưng ông có công lớn trong
việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, xây dựng học thuyết đạo đức, chủ trương
“Lễ trị” và phản đối việc dùng “hình” trong phép trị nước. Ông có công lớn
trong việc giáo hóa con người theo mẫu người “quân
tử”. Trong xã hội ấn Độ cổ đại học
thuyết Phật giáo đã đưa ra triết lý nhân sinh, triết lý giải thoát giúp chúng
sinh thoát khỏi mọi khổ đau bằng cách hướng con người về cõi thiện, sống từ bi,
hỉ xả.
Trong xã hội Hy Lạp cổ đại việc giáo dục con người
được thực hiện thông qua truyền thuyết, sử thi, những di sản văn hóa nhằm đề cao những giá trị đạo đức của con người. Iliát và
Ôđixê là những trường ca bất hủ, biểu tượng cao đẹp về lòng trung thực, dũng
cảm, cao thượng, trong sáng trong tình yêu, tình bạn.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống trong đạo lý, sống
nhân ái, coi đức là gốc của nhân cách con người, kế thừa giá trị đạo đức tốt
đẹp của ông cha. Trong truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích... ông
cha ta khuyên con người hướng thiện, ca ngợi cái đức, bài bác cái ác. Ông cha
ta vẫn coi đức là gốc, coi “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,
"Chồng ta áo rách ta thương, chồng người áo gấm xông hương mặc
người", “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du).
Đạo đức là bộ phận của kiến trúc thượng tầng có tác
động trở lại cơ sở kinh tế là phương
thức điều chỉnh quan hệ xã hội. Cơ sở
của mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là do mâu thuẫn về lợi ích. Những mâu thuẫn
đó có xu hướng càng phức tạp và có tính phổ biến. Nếu có sự thống nhất lợi ích
cá nhân - xã hội thì xã hội sẽ ổn định, phát triển. Để duy trì sự tồn tại, phát
triển của xã hội, đòi hỏi phải xây dựng những nguyên tắc, chuẩn mực sống để con
người tự ý thức, tự hành động. Xã hội luôn có những nguyên tắc, chuẩn mực cho
nhiều thời đại (sống thiện, trung thực, yêu lao động), đồng thời cũng có những
chuẩn mực, nguyên tắc chỉ phù hợp với giai đoạn lịch sử nhất định.
Vai trò của đạo đức tuỳ thuộc vào từng chế độ xã hội ở
những thời đại khác nhau. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy
con người phải dựa vào nhau để sống theo nguyên tắc tập thể, tương trợ, bình
đẳng lợi ích, nhân đạo. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ đạo đức có tính chất giai
cấp, đạo đức nô lệ đối lập gay gắt với đạo đức giai cấp chủ nô. Trong chế độ
phong kiến luật lệ hà khắc, ngặt nghèo, song yếu tố đạo đức vẫn duy trì, tồn
tại. Đạo đức đó bảo vệ chế độ phong kiến, song quần chúng vẫn duy trì, phát
triển quan niệm đạo đức, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Trong chủ nghĩa tư bản
mâu thuẫn giữa tính vô nhân đạo, chủ nghĩa cá nhân tư sản với tinh thần nhân
ái, say mê lao động của giai cấp vô sản. Trong chủ nghĩa xã hội, đạo đức phát
triển từ những gì đẹp nhất của đạo đức nhân loại. Nó là một động lực quan trọng
cho sự phát triển xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng tất yếu khách quan, nhằm
điều chỉnh ý thức, hành vi, quan hệ ứng xử của con người với nhau trong xã
hội. Con người luôn vươn tới giá trị đạo đức thiện, sống có ích, nhân đạo. Đạo
đức giúp cho con người hoàn thiện nhân cách của mình, vì có tài mà không có đức
là người vô dụng. Những khuôn mẫu, chuẩn mực đạo đức sẽ là cơ sở cho sự hình
thành nhân cách con người.
Đạo đức có vai trò như động cơ thôi thúc con người
chống lại cái xấu, cái ác, thúc đẩy phát triển, tiến bộ xã hội, tạo điều kiện
thuận lợi để con người thực hiện nhu cầu của mình. Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, sau khi phản ánh tồn tại xã hội, nó tác động tích cực đến tồn tại
xã hội. Có thể thúc đẩy song đạo đức thường bảo thủ, biến đổi chậm nên nhiều
khi nó cản trở xã hội phát triển nếu không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Trong đời sống xã hội đạo đức tiến bộ là một động lực
quan trọng để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tuy nhiên, khi đạo đức, lối
sống của con người bị suy thoái thì nó
biến thành trở ngại, thậm chí đã trở thành nguy cơ cho xã hội.
2. Nguồn gốc của đạo đức
a.
Những quan điểm trước Mác về nguồn gốc của đạo đức
-
Quan điểm tôn giáo và thần học coi đạo đức nảy sinh và phát triển dưới ảnh hưởng trực tiếp
của lòng tin tôn giáo, coi những chuẩn mực đạo đức là do thần thánh, thượng đế
phán quyết và răn dạy chúng sinh. Các quan điểm tôn giáo đều đề cập đến tính
thiện, đến sự mưu cầu hạnh phúc cho người dân, đấu tranh chống điều ác. Do vậy,
một số người ngộ nhận hoặc cố tình kết luận rằng đạo đức có nguồn gốc từ tôn
giáo, đạo đức mang bản chất tôn giáo, rằng đó là ân đức của Chúa trời đem đến
ban phát cho loài người. Kitôgiáo cho rằng Thượng đế là đấng tối cao, có
trách nhiệm ban phước lành và cứu rỗi cho loài người, mỗi người phải có
trách nhiệm chấp hành mọi nghĩa vụ trước thượng đế. Hạnh phúc của con người
do Chúa đem lại. Con người phạm tội tổ tông, nhưng nếu biết sám hối, được rửa
tội trước khi chết, thì sẽ được hưởng hạnh phúc ở trên thiên đàng, nơi Thiên
Chúa. Còn Phật giáo với triết lý nhân sinh sâu sắc nhằm giác ngộ cho con người
thì cho rằng cuộc đời con người là bể khổ, cuộc đời con người bị mắc vào
“nghiệp báo”, “luân hồi”. Đức Phật với đức tính từ bi hỷ xả đã ra tay cứu giúp
con người thoát khỏi "bể khổ" đưa con người đến với thế giới cực lạc
nơi cõi niết bàn, luôn khuyên dạy con người phải biết sống từ tâm, xa lánh mọi
dục vọng.
- Những người theo quan điểm tự
nhiên chủ nghĩa lại cho rằng đạo đức của con người có nguồn
gốc từ bản năng động vật. Chẳng hạn,
những người theo thuyết Đácuyn xã hội suy luận rằng đạo đức là bản tính tự
nhiên - sinh vật của con người, không chịu sự quy định nào của những điều kiện
kinh tế - xã hội. Điều này hoàn toàn vô căn cứ, vì hoạt động của con người khác
hẳn về chất so với hoạt động của con vật. Thế giới loài vật không hề biết và
không thể có một ý thức, có một chuẩn mực đạo đức nào như xã hội con người. Hơn
nữa, theo Mác, bản chất con người không phải là trừu tượng của những cá nhân
riêng rẽ, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội dựa trên nền tảng sinh học. Nếu cho đạo đức có tính di
truyền từ thế giới loài vật như vậy sẽ làm cho con người hoàn toàn bất lực
trong việc giáo dục con người,
- Quan niệm xã hội mang tính chủ
quan, như thuyết
Khế ước xã hội của G.Rútxô, lại xem đạo đức như những quy ước chung do ý
muốn chủ quan, do thỏa thuận để giữ gìn lợi ích chung. Họ cho rằng chuẩn mực
đạo đức thực hiện "ý thức bầy đàn đơn thuần", "là bản năng được
ý thức", họ không nhận thức được tất yếu nói chung, tất yếu đạo đức nói
riêng. Vì không nhận thấy những cơ sở kinh tế của đời sống đạo đức, cho nên
thuyết Khế ước xã hội không thể thoát khỏi khuynh hướng duy tâm khi lý giải về
nguồn gốc của đạo đức.
- Phái vị kỷ
hợp lý cho rằng bản chất xã hội của
đạo đức là ở sự thỏa hiệp có tính chất chủ quan, giữa những chủ thể đạo đức để
điều phối lợi ích một cách hợp lý. Ví dụ thuyết "kẻ có của, người có
công" được họ lý giải theo nghĩa hai bên cùng có lợi. Đó là sự thỏa thuận
chung của giai cấp tư sản để nhằm chứng minh cho hành vi lười biếng, ăn bám
xã hội. Cũng giống như thuyết khế ước xã hội, học thuyết xã hội về đạo đức này
coi đạo đức như sự ăn chia các tập đoàn người, nhằm biện hộ cho chủ nghĩa cá
nhân tư sản, cho sự thống trị vĩnh viễn của giai cấp tư sản.
- Những nhà duy
vật trước Mác, chẳng hạn như L.Phoiơbắc, đã cố gắng lấy hoàn cảnh xã hội để
giải thích nguồn gốc xã hội của đạo đức con người. Song do cách tiếp cận bản
chất con người một cách chung chung, trừu tượng, mang nặng tính siêu hình, cho
nên quan niệm của họ về đạo đức con người hoàn toàn tách rời lịch sử, đứng trên
các dân tộc, các giai cấp. Quan niệm đó khó thoát khỏi ngõ cụt của chủ nghĩa
duy tâm về lịch sử.
b. Quan điểm của đạo đức học Mác - Lênin về nguồn gốc của
đạo đức
Phê phán
những cách giải thích không đúng đắn về nguồn gốc của đạo đức trước đây, chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đạo đức cũng như ý thức con người nói chung là một
sản phẩm của đời sống xã hội, không thể tách rời tồn tại xã hội của con người.
Do vậy, sự phát sinh, phát triển và hoàn thiện của nó được quy định bởi sự
phát sinh, phát triển và hoàn thiện của tồn tại xã hội. Đạo đức xuất hiện không
phải do một sức mạnh thần thánh nào đó bên ngoài xã hội, cũng không phải là sự
thể hiện của một năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người, mà
do nhu cầu tất yếu phải điều tiết mối quan hệ phức tạp giữa các cá nhân với
nhau, cũng như giữa cá nhân với xã hội. Quan hệ đạo đức, xét cho cùng, là sự
biểu hiện của những quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất, trong
hoạt động xã hội nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội.
Cơ sở kinh tế, quan hệ sản xuất của xã hội như thế nào thì ý thức đạo đức của
xã hội như thế ấy. Khi xem xét nguồn gốc của đạo đức, các nhà kinh điển cho
rằng, lao động sản xuất là cội nguồn cơ bản nhất, quan trọng nhất của đạo đức;
mọi chuẩn mực và giá trị đạo đức xét đến cùng đều được nảy sinh, bắt rễ từ đó.
Đạo đức
không phải là một cái gì bất biến, mà luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của
tồn tại xã hội. Khi đời sống vật chất của xã hội biến đổi, xã hội ngày càng
tiến bộ thì những quan niệm đạo đức, những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức cũng
biến đổi theo và ngày càng được hoàn thiện. Do vậy, đạo đức là hiện tượng có
tính lịch sử xã hội. ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, ở mỗi giai cấp khác
nhau thì có các quan điểm khác nhau về cái tốt, cái xấu; cái thiện, cái ác,
hạnh phúc và bất hạnh; về lương tâm và vô lương tâm cũng như về nghĩa vụ, trách
nhiệm.v.v. Thực tế lịch sử cho thấy, những phong tục, tập quán đạo đức của xã
hội cộng sản nguyên thủy chính là sản phẩm mà con người đã tạo ra trong buổi sơ
khai của lịch sử tương ứng với trình độ thấp kém của sản xuất vật chất và sản
xuất tinh thần trong xã hội đó. Các nền đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, của
xã hội phong kiến, của xã hội tư bản chủ nghĩa lần lượt xuất hiện kế tục lẫn
nhau và cuối cùng là sự xuất hiện của đạo đức cộng sản cùng với thắng lợi của
việc xây dựng xã hội mới cũng là do sự phát triển từ thấp đến cao của hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Trong các
xã hội có sự đối kháng giai cấp, đạo đức cũng có tính giai cấp, mang tính đối
kháng, xung đột; nghĩa là tùy thuộc vào địa vị xã hội và lợi ích giai cấp khác
nhau mà các quan điểm về đạo đức cũng khác nhau. Đạo đức của giai cấp bóc lột
thường đối lập với đạo đức của quảng đại quần chúng nhân dân lao động và toàn
xã hội. Chính vì thế mà Ph.Ăngghen viết: "xét cho đến cùng, mọi học thuyết
về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã
hội lúc bấy giờ"[2].
Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Thông qua hoạt
động thực tế và quan hệ xã hội, đồng thời thông qua kinh nghiệm lịch sử của
mình con người ở mỗi thời đại đã xây dựng những chuẩn mực, những giá trị đạo
đức khác nhau.
Mặt khác,
đạo đức còn bao hàm cảm xúc, trách nhiệm của con người trước hoàn cảnh, trước
đồng loại, cho nên ngoài tính khách quan do cơ sở kinh tế - xã hội quy định, nó
còn mang cả tính chủ quan, với tư cách là kết quả của hoạt động nhận thức và
hoạt động giáo dục của con người. Nó còn thể hiện khát vọng sống có mục đích
cao đẹp, thể hiện những nỗ lực, ý chí vươn lên của con người nhằm đạt đến
những giá trị đạo đức đích thực, đến tự do chân chính.
Như vậy,
đạo đức là sản phẩm của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần, của hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức con người. Không có những hoạt động này
thì không thể có đạo đức. Nói cách khác, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của những
yếu tố khách quan và những yếu tố chủ quan trong hoạt động sống của con người.
3. Bản chất của đạo đức
Với tư
cách là sản phẩm của xã hội, là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, đạo đức mang bản chất xã hội một cách sâu sắc. Có thể nói, đạo đức là một
lĩnh vực đặc biệt của con người, của những quan hệ thực sự mang tính người. Bởi
vì, chỉ có ở con người hoạt động một cách tự giác, có mục đích mới có đạo đức.
Khác hẳn với loài vật, trong mọi hoạt động của mình con người bao giờ cũng có
sự lựa chọn hành vi và tự chịu trách nhiệm đối với hậu quả do sự lựa chọn đó
gây nên. Nói cách khác, con người luôn tự lựa chọn cho mình những giá trị đạo
đức nhất định và sẵn sàng chấp nhận mọi sự kiểm tra, đánh giá từ phía xã hội
đối với sự lựa chọn đó. Căn cứ vào sự kiểm tra, đánh giá đó (xã hội tán thành
hay phản đối), tức là căn cứ vào những chuẩn mực đạo đức được hình thành trong
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân hay giữa cá nhân với xã hội, con người tự điều
chỉnh những hành vi của mình sao cho để bảo đảm sự thống nhất, sự hài hòa giữa
lợi ích của mình với lợi ích của cộng đồng. Đạo đức được coi là một trong những
dấu hiệu rất căn bản để phân biệt con người với con vật, xã hội loài người với
thế giới động vật, ở đâu có con người, ở đó có đạo đức. Nói đến đạo đức chỉ có
nghĩa là đạo đức của con người mà thôi.
Bản chất xã hội được hiểu theo những nghĩa sau đây:
- Nội
dung mà đạo đức phản ánh và điều chỉnh mang tính khách quan, do thực tiễn và
tồn tại xã hội của con người quy
định. Thực tiễn và tồn tại xã hội của con người đề ra nhu cầu cho đạo đức và
hiện thực hóa những nhu cầu đó thông qua những chuẩn mực, những giá trị đạo
đức.
- Nội
dung khách quan đó được chủ thể nhận thức dưới hình thức mang tính chủ quan,
làm cho đạo đức trở thành một lĩnh vực sản xuất tinh thần độc lập và chuyên
biệt của đời sống xã hội.
- Sự hình
thành, phát triển và hoàn thiện của đạo đức, xét cho cùng, do trình độ phát
triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người quyết định.
Khi thực tiễn và tồn tại xã hội của con người biến đổi, phát triển thì nội dung
của đạo đức cũng biến đổi theo.
Như vậy,
đạo đức mang bản chất xã hội; nó được phát sinh, phát triển và đồng thời là sự
phản ánh của tồn tại xã hội, của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con
người.
Bản chất xã
hội của đạo đức thể hiện một cách rõ nét thông qua tính giai cấp, tính dân tộc
và tính nhân loại của nó. Trong đó, tính giai cấp của đạo đức được coi là biểu
hiện nổi bật nhất, đặc trưng nhất cho bản chất xã hội của đạo đức trong xã hội
có giai cấp.
Trong xã hội có phân chia giai cấp, đạo đức được hình
thành và phát triển với tư cách là sản phẩm của nền sản xuất dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, nó trở thành công cụ để bảo vệ và tăng cường chế độ
tư hữu. Mỗi giai cấp có địa vị, vai trò khác nhau và đối lập nhau trong đời
sống kinh tế nói riêng và đời sống xã hội nói chung, cho nên, cũng có một hệ
thống đạo đức riêng, phản ánh và bảo vệ những lợi ích khách quan của mình. Như
Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: "Con người dù tự giác hay không tự giác, rút
cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn
đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế
trong đó người ta sản xuất và trao đổi”[3].
Thực tế lịch sử cho thấy, ý thức đạo đức của mỗi giai cấp luôn hướng vào nhận
thức và bảo vệ cho lợi ích giai cấp của mình. Chính vì thế, đạo đức của những
giai cấp đối kháng nhau thì cũng xung đột và đối kháng nhau một cách gay gắt.
Điều này là đương nhiên, bởi vì: "cho tới nay xã hội đã vận động trong
những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai
cấp"[4].
Sự xung đột và đối kháng giữa đạo đức chủ nô và đạo đức nô lệ, giữa đạo đức
phong kiến và đạo đức nông dân, giữa đạo đức tư sản và đạo đức vô sản đều có
căn nguyên từ sự xung đột và đối kháng lợi ích giai cấp trong xã hội. Đương
nhiên, đạo đức của các giai cấp thống trị xã hội (của chủ nô, phong kiến, tư
sản, công nhân) bao giờ cũng đóng vai trò chi phối trong đời sống đạo đức xã
hội, là yếu tố tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, nó có vai trò
to lớn trong sự biến đổi phát triển và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, do lợi ích của
các giai cấp khác nhau nên tất yếu có những giá trị đạo đức khác nhau, đối lập
nhau giữa các giai cấp. Khi giai cấp thống trị tuyệt đối hóa lợi ích của mình
thì nó lại phá hoại lợi ích của giai cấp bị trị, của nhân dân lao động; cái
thiện với giai cấp thống trị lại là cái ác với các giai cấp bị trị. C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: "Mỗi bước tiến đồng thời cùng là bước lùi tương
ứng trong đó phúc lợi và sự phát triển của những người này được thực hiện bằng
sự đau khổ và bị áp chế của những người khác"[5].
Trong cuộc đấu tranh giai cấp, các giai cấp đối kháng luôn sử dụng đạo đức của
mình như một vũ khí để đấu tranh với nhau. Vì lợi ích của mình giai cấp thống
trị sẵn sàng thực hiện những hành động hèn hạ về mặt đạo đức, sẵn sàng gây tai
họa cho quần chúng nhân dân lao động, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của đạo đức
xã hội.
Rõ ràng, nếu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và
chế độ có giai cấp, đối kháng giai cấp là một hiện tượng lịch sử thì bản chất
giai cấp của đạo đức cũng có tính lịch sử. Nghĩa là nó sẽ mất đi khi những
nguồn gốc kinh tế, xã hội làm cho nó nảy sinh và phát triển không còn nữa. Khi
xã hội đạt được sự tiến bộ như vậy, khi các quan hệ giữa người với người trong
xã hội đã được nhân đạo hóa thì tính giai cấp của đạo đức cũng sẽ mất dần. Do
vậy, việc tiến hành cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa là cơ sở cho việc từng
bước thủ tiêu tính giai cấp của đạo đức. Theo C.Mác, “Cách mạng cộng sản chủ
nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất
với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ… nó đoạn tuyệt một cách triệt để
nhất với những tư tưởng kế thừa từ quá khứ,”[6]
trong đó có những tư tưởng đạo đức của xã hội có giai cấp đối kháng.
Tính thời đại
và tính dân tộc của đạo đức cũng là
những biểu hiện cho bản chất xã hội của đạo đức.
Cùng với việc khẳng định tính giai cấp của đạo đức,
chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ tính thời đại của đạo đức, khi khẳng định các
chuẩn mực và nguyên tắc đạo đức luôn gắn liền với những thời đại lịch sử nhất
định và là sản phẩm của những thời đại đó. Đó chính là cơ sở cho việc phân chia
đạo đức thành những kiểu đạo đức nhất định, tương ứng với các thời đại kinh tế
trong lịch sử. Đạo đức nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu nô lệ,
đạo đức phong kiến, đạo đức tư bản chủ nghĩa, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là
những nấc thang khác nhau trong sự tiến triển dần dần của đạo đức nhân loại.
Nói đến đạo đức còn phải thấy tính dân tộc của nó. Mỗi
dân tộc là một cộng đồng về kinh tế, lãnh thổ, ngôn ngữ và văn hóa chung, do
vậy họ cũng có chung nền đạo đức riêng, tương ứng với bản sắc văn hóa của dân
tộc đó. Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ: "Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời
đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều
đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau"[7].
Bản sắc dân tộc thể hiện ở giá trị truyền thống, hệ thống những quan niệm,
chuẩn mực và lối ứng xử đạo đức của cộng đồng. Xét theo một ý nghĩa nào đó, có
thể coi tính dân tộc của đạo đức như là sự biểu hiện đặc thù cho tính thời đại
của nó ở trong các dân tộc khác nhau.
Ngoài tính giai cấp và tính dân tộc, đạo đức còn mang
tính nhân loại. Tính nhân loại của đạo
đức cũng là sự thể hiện bản chất xã hội của đạo đức. Tính nhân loại của đạo
đức thực chất là phản ánh và bảo vệ những lợi ích, những giá trị có ý nghĩa
toàn nhân loại. Đương nhiên, tính nhân loại của đạo đức phải được xem xét không
tách rời khỏi tính giai cấp của nó. Tính giai cấp của đạo đức trong xã hội có
giai cấp không phủ nhận tính nhân loại của nó. Tính nhân loại của đạo đức tồn
tại ở mức độ thấp là những những quy tắc giản đơn, thông thường nhưng rất cần
thiết để bảo đảm trật tự bình thường cho cuộc sống hàng ngày của con người. Tồn
tại ở mức độ cao hơn, chính là tổng hợp những giá trị đạo đức tiến bộ mà các
giai cấp tiên tiến, cách mạng đã đạt được trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Thừa nhận tính nhân loại của đạo đức là cần thiết,
nhưng cũng không nên thổi phồng hoặc tuyệt đối hóa nó, như một số quan niệm tư
sản về một nền đạo đức chung chung trừu tượng, phi dân tộc, phi giai cấp, phi
lịch sử. Thực tế, đó là cách giai cấp tư sản cố tình tìm cách che đậy bản chất
giai cấp của đạo đức tư sản, nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp ích kỷ của mình.
4. Chức năng của đạo đức
Nói đến chức năng của đạo đức là nói đến vai trò mà nó
thực hiện trong hệ thống xã hội, sự tác động và ảnh hưởng của nó đến các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội. Có thể thấy, trong hệ thống xã hội đạo đức thực
hiện ba chức năng cơ bản là: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục,
chức năng phản ánh.
a. Chức năng
điều chỉnh hành vi
Đây là chức năng chính yếu nhất của đạo đức. Một số
tác giả gọi đạo đức là phương thức đặc biệt để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Đối tượng điều chỉnh trực tiếp của đạo đức là hành vi của cá nhân, đối tượng
điều chỉnh gián tiếp của đạo đức là các quan hệ xã hội. Thông qua sự điều chỉnh
của đạo đức thì quan hệ xã hội của con người vận động theo xu hướng đi đến
khẳng định lợi ích nhất định, khẳng định sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội
Để thực hiện vai trò điều chỉnh của mình, đạo đức dựa
vào nhiều cơ sở như chuẩn mực, lý tưởng, đánh giá, niềm tin và tình cảm đạo
đức. Chuẩn mực đạo đức chỉ ra giới hạn, phương án được phép, không được phép
của hành vi, ra lệnh cho con người hoạt động trong giới hạn và phương án cho
phép của hành vi nhằm đảm bảo cho những lợi ích nhất định.
- Lý tưởng đạo đức thực hiện vai trò chương trình
hóa hoạt động của con người, hướng hành vi của con người vào những mục đích
đạo đức phù hợp với lôgíc, tạo lập những lợi ích xác định, mà cao nhất là lẽ
sống. Ví dụ, việc phấn đấu không mệt mỏi cho sự thắng lợi chủ nghĩa cộng sản
tạo nên lý tưởng đạo đức cộng sản. Hướng theo một lý tưởng đạo đức nhất định
có thể tạo ra sự hài hòa hay không hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội. Do
đó, lý tưởng đạo đức đóng vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội như thế nào là
tùy theo nội dung và tính chất của nó.
- Đánh giá đạo đức sẽ giúp cho con người nhận thức được
giá trị đạo đức của hành vi đạo đức, nhờ đó con người lựa chọn chuẩn mực đạo
đức của hành vi. Đánh giá còn củng cố, tăng cường, phán xét hành vi tình cảm,
nó không chỉ tạo cơ sở để lựa chọn hành vi mà còn là động lực cho hành vi.
- Niềm tin và tình cảm đạo đức là động lực của hành vi
đạo đức. Niềm tin là cơ sở để hình thành ý chí trong hành vi nâng cao tính tích
cực cho con người. Còn tình cảm đạo đức sẽ điều chỉnh cường độ và nhịp độ của
hoạt động nhằm đạt mục đích đó. Đạo đức xã hội tạo sức ép lên ý thức cá nhân
buộc cá nhân tiếp nhận sự phê phán của xã hội. Nó uốn nắn hành vi cá nhân theo
yêu cầu xã hội là tăng cường bảo vệ lợi ích xã hội.
Thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi, đạo đức quy
định giới hạn và phương án hoạt động; chương trình hóa hoạt động nhằm đạt mục
đích đạo đức xác định; hướng dẫn hoạt động con người vào việc xác lập những
lợi ích xã hội. Hình thức điều chỉnh chủ yếu dựa vào sức mạnh của dư luận xã
hội để khuyến khích hành vi tốt đẹp, lên án những biểu hiện không lành mạnh.
Đồng thời trên cơ sở chuẩn mực xã hội, các chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh
hành vi của mình, đi vào thực tiễn để trưởng thành từ đó bản lĩnh vững vàng
hơn.
Hiệu quả và phạm vi tác động của chức năng điều chỉnh
phụ thuộc vào trình độ hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và điều kiện kinh tế xã
hội. Trình độ hoàn thiện của cấu trúc đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân dựa vào
yếu tố cơ bản là tri thức đạo đức. Tri thức đạo đức càng sâu sắc, phong phú thì
hiệu quả điều chỉnh của đạo đức càng cao, phạm vi càng rộng. Tri thức đạo đức
còn là cơ sở để hình thành, lựa chọn và hiện thực hóa các chuẩn mực phù hợp với
những đòi hỏi của cơ sở kinh tế xã hội. Tri thức càng rộng, càng sâu là tiền đề
để cá nhân tiếp nhận, thực hiện những chuẩn mực đạo đức trong những tình huống
cụ thể, đặc biệt trong nhiều tình huống xung đột, đòi hỏi có nỗ lực của ý chí
để sáng tạo đạo đức. Hoàn thiện cấu trúc đạo đức chỉ có thể được thực hiện
thông qua hoạt động thực tiễn và giáo dục làm cho đạo đức xã hội thâm nhập vào
đạo đức cá nhân và phải được kiểm soát trên phạm vi toàn xã hội.
Những điều kiện
khách quan của việc nâng cao hiệu quả, mở rộng phạm vi điều chỉnh, chính là các
quan hệ kinh tế và các quan hệ chính trị - xã hội. Nó quyết định hiệu quả và
phạm vi điều chỉnh của đạo đức, quy định bản chất giai cấp, quy định khuynh hướng
sức mạnh của tính tích cực xã hội, quy định những phương thức cụ thể trong
việc thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức. Dựa trên chuẩn mực, lý
tưởng, đánh giá đạo đức thống nhất, hướng vào mục đích có tính thống nhất,
chủ thể và đối tượng thống nhất nên phạm vi, hiệu quả điều chỉnh hành vi của
đạo đức trong chủ nghĩa xã hội có tính tự giác, nó gắn liền với công tác quản
lý xã hội. Đó là sự điều chỉnh dựa trên sự thống nhất lợi ích chủ thể đạo đức
và tinh thần xã hội, là bộ phận hợp thành quản lý xã hội, có sự thống nhất có
tính xã hội giữa chủ thể và khách thể nên sự điều chỉnh của đạo đức phù hợp với
sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Phạm vi điều chỉnh của đạo đức được mở rộng
và hiệu quả điều chỉnh của nó ngày càng được nâng cao.
Ngược lại, nếu lợi ích mà đạo đức xác lập không phù
hợp với phát triển và tiến bộ xã hội thì nó cản trở tiến bộ xã hội. Trong xã hội
có đối kháng giai cấp do không có sự thống nhất về chính trị - đạo đức - tinh
thần, cho nên sự điều chỉnh của đạo đức ít có hiệu quả, phạm vi điều chỉnh hạn
hẹp. Chính quan hệ xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, quan hệ đối kháng giai cấp, đã làm cho đạo đức đối lập nhau, làm giảm
hiệu quả và phạm vi điều chỉnh hành vi của nó. Đó chính là sự thể hiện tính tự
phát của điều chỉnh đạo đức, tính không kiểm soát được của đời sống đạo đức
trên phạm vi toàn xã hội.
b. Chức năng
giáo dục
Đạo đức là mặt cơ bản của văn hóa con người, vì nếu
có học vấn mà không có đạo đức, thì không thể gọi là người có văn hóa. Nó như
là giá trị văn hóa lớn lao, bởi vì nó nâng cao con người, nâng cao phẩm giá
con người, kích thích và phát triển bản chất xã hội của con người. Sự hình
thành, phát triển và hoàn thiện đạo đức con người là một mặt của sự hình
thành, phát triển và hoàn thiện con người. Do vậy, đạo đức thực hiện chức năng
giáo dục con người, nó đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân
cách con người.
Mục đích của giáo dục là để hình thành những quan điểm
cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người, giúp
con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội, đánh giá ý
thức, hành vi của bản thân mình. Thông qua những nguyên tắc, chuẩn mực, con người
tự điều chỉnh ý thức và hành vi của mình. Đạo đức cá nhân không phải tự nhiên,
không phải bẩm sinh mà có, như Bác Hồ đã chỉ ra rằng:
"Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Thực hiện chức năng giáo dục, đạo đức đã tạo nên môi
trường giáo dục đạo đức, không có môi trường xã hội này thì con người không
thể có được những phẩm chất đạo đức phù hợp với
đòi hỏi của xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là phương thức điều
chỉnh, một hệ thống giá trị. Chúng tồn tại một cách khách quan đối với tâm lý,
ý thức, hành vi mỗi cá nhân (cái riêng). Hệ thống đạo đức xã hội tạo thành chất
lượng của môi trường, hoàn cảnh xã hội, là chất liệu để tạo ra bộ mặt của đạo
đức cá nhân. Môi trường tốt đẹp góp phần hình thành giá trị đạo đức tốt đẹp
của cá nhân. Ngược lại, môi trường xấu ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức cá nhân.
Có thể nói, theo cách diễn đạt của Mác, con người tạo ra đạo đức và đạo đức
cũng sáng tạo ra con người trong chừng mực mà con người sáng tạo ra nó.
Con đường hình thành đạo đức của cá nhân bao gồm cả
nhận thức và thực tiễn. Thông qua nhận thức, ý thức đạo đức xã hội được chuyển
thành ý thức đạo đức của cá nhân. Những giá trị đạo đức mang tính khách quan,
phổ biến được xã hội thừa nhận dần dần chuyển thành ý thức, niềm tin, lý tưởng
của cá nhân, tự phát hay tự giác. Nhận thức được thực hiện bằng thông tin và
đánh giá đạo đức. Thông tin là cách truyền đạt đạo đức xã hội cho cá nhân nhờ
tập thể nhà trường, gia đình và xã hội. Mỗi người cần hiểu thông tin đạo đức
xã hội, đánh giá nó và nhờ đó cá nhân hiểu, tin vào giá trị đạo đức. Nhờ có nhận thức đúng, có niềm tin đạo đức sâu sắc
sẽ thúc đẩy cá nhân hành động.
Thực tiễn đạo đức là con đường và phương thức hiện
thực hóa nội dung giáo dục đạo đức trong đạo đức cá nhân. Thông qua lao động,
chiến đấu, học tập và hoạt động cải tạo xã hội sẽ củng cố, tăng cường nội dung
giáo dục đạo đức, làm cho đạo đức cá nhân ngày càng mang nội dung xã hội. Do
vậy, không có thực tiễn đạo đức thì không thể có ý thức và hành vi đạo đức. Đạo
đức xã hội là khuôn mẫu để nhào nặn bộ mặt đạo đức cá nhân. Mỗi hệ thống đạo
đức có nội dung giáo dục rất cụ thể nhờ đó nội dung xã hội của đạo đức được
chuyển vào ý thức, hành vi và củng cố những phẩm chất đạo đức cá nhân.
Hiệu quả của giáo dục đạo đức tùy thuộc vào hoàn cảnh
kinh tế - xã hội và mức độ tự giác của quá trình đạo đức. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp thì nội dung giáo dục cũng mang tính đối kháng. Giáo dục trên
phạm vi toàn xã hội là tự phát vì thế hiệu quả giáo dục đạo đức là thấp. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa sự thống nhất về chính trị - tư tưởng quy định thống
nhất về mục đích, nội dung, cách thức giáo dục trên phạm vi toàn xã hội. Mục
đích giáo dục đạo đức là nhằm hình thành, phát triển đạo đức cộng sản chủ
nghĩa. Nội dung giáo dục rất rộng lớn, bao gồm những giá trị, nguyên tắc và lý
tưởng đạo đức cộng sản. Đó là quá trình mang tính chất tự giác, có tính xã hội
hóa cao, kết hợp giữa giáo dục trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội, kết
hợp giáo dục và tự giáo dục.
c. Chức năng
nhận thức
Nhận thức cũng là một chức năng của đạo đức. Nó giúp
con người phản ánh đúng đắn đời sống đạo đức của xã hội, trang bị cho con người
những tri thức, lý luận và thực tiễn đạo đức để con người nhận biết được lẽ
phải, những chuẩn mực, những giá trị đạo đức nhằm thực hiện vai trò định hướng
cho hành vi của chủ thể đạo đức.
Đối tượng phản ánh của đạo đức là những chuẩn mực và
quan hệ giá trị với tư cách là những yếu tố hợp thành quan hệ xã hội. Hình thức
phản ánh, nhận thức là các phán đoán chuẩn mực, phán đoán đánh giá, các khái
niệm có tính mệnh lệnh (về thiện và ác) và những khái niệm đạo đức khác. Nội
dung nhận thức gồm những hiểu biết về đòi hỏi của hiện thực đối với hành vi của
con người, hiểu được giá trị và phương thức sáng tạo ra giá trị của đối tượng.
ở đây phản ánh đạo đức khác phản ánh khoa học khác ở chỗ nó không đơn thuần để
hiểu bản thể, quy luật khách quan. Nó phản ánh thông qua thông tin, chuẩn mực,
giá trị. Chính lợi ích đã tạo ra tính đa trị của phản ánh đạo đức. Xuất phát từ
nhu cầu hiện thực của mình cho nên những chủ thể khác nhau có sự phản ánh khác
nhau và đối lập nhau về cùng một đối tượng. Ví dụ, người này cho là phúc, người
khác cho là họa, người này cho là thiện, người khác cho là ác.
Trình độ thông thường của nhận thức khách thể mang
tính cụ thể, đơn nhất bằng những quan niệm thông thường, những chuẩn mực hành
vi và những đánh giá đơn nhất về những khách thể cụ thể đó. Trình độ phản ánh
đạo đức đạt đến trình độ lý luận khoa học là xâm nhập tới bản chất, quy luật
phát triển của xã hội. Nó giống như chiếc "phong vũ biểu" rất nhạy
cảm trước biến đổi của đời sống xã hội. Nó phản ánh hiện thực khách quan bằng
những tư tưởng, quan điểm khái niệm có tính lý luận bằng những nguyên tắc đạo
đức của chủ thể có năng lực khái quát lý luận.
III. Các kiểu đạo đức trong lịch sử và
mối quan hệ giữa đạo đức với một số hình
thái ý thức xã hội khác
1. Các kiểu đạo đức trong lịch sử
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, do tồn tại xã
hội quy định. Khi chúng ta xem xét các kiểu đạo đức trong xã hội, có nghĩa là
thực hiện sự phân loại đạo đức. Việc phân loại này được thực hiện trên những
cơ sở khác nhau. Thông thường, khi căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, người ta có thể chia ra các kiểu đạo đức đã hình thành trong lịch sử nhân
loại như sau:
a. Đạo đức
trong xã hội cộng sản nguyên thủy
ở thời kỳ này trình độ phát triển kinh tế còn rất thấp
kém, con người phải dựa vào nhau để tồn tại. Xã hội chưa phân hóa thành giai
cấp. Cá nhân chưa tách khỏi cộng đồng, chưa có sự ý thức về mình. Con người
cùng nhau lao động săn bắn, hái lượm hay đánh bắt để kiếm sống. Kỷ luật lao
động được thực hiện bởi phong tục, tập quán, những điều kiêng kỵ. Đạo đức trong
xã hội cộng sản nguyên thủy có những đặc điểm sau đây:
- Trong xã hội
nguyên thủy đạo đức cá nhân chưa tách ra khỏi đạo đức của cộng đồng. Đạo
đức con người lúc bấy giờ là thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm,
theo đúng nghĩa giữa người với người và đối với toàn thị tộc, bộ lạc. Ai đó
đụng chạm tới lợi ích của cộng đồng, mọi thành viên sẵn sàng chiến đấu hy sinh
để bảo vệ những lợi ích đó.
- Đạo đức
nguyên thủy mang nặng tính cụ thể, tính trực quan, kinh nghiệm. Thời kỳ này do hạn chế về trình độ nhận thức, con người
chưa thể xây dựng được những phạm trù khái niệm; đạo đức chỉ tồn tại ở dạng
kinh nghiệm được hình thành trong cuộc sống mà mọi người tự phát tuân theo.
Các thành viên trong cộng đồng thực hiện những hành vi đạo đức theo thói quen
của họ, bằng cách nhìn vào hành vi của người khác rồi làm theo, họ không lý
giải được vì sao lại phải như vậy. Những điều cấm kỵ, những phong tục tập quán
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tồn tại dai dẳng trong cộng đồng.
Quan niệm thiện và ác, đúng và sai, lương tâm, nghĩa vụ đạo đức đều mang tính
chất cảm tính, chưa có sự hiểu biết sâu sắc, chưa có sự cắt nghĩa bằng lý trí.
Chẳng hạn, không ít bộ lạc ở châu Phi, châu Mỹ Latinh hiện nay họ vẫn quan niệm
phải tuân theo mệnh lệnh của người đứng đầu bộ lạc, nghe lời người lớn tuổi,
làm theo phong tục tập quán của bộ lạc, nếu làm trái đi sẽ bị cộng đồng lên án,
trừng phạt.
- Tính hợp tác,
sự công bằng, thông cảm, tương trợ cũng là một đặc điểm của đạo đức nguyên
thủy. Trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn rất thấp kém, công cụ
lao động còn rất thô sơ đòi hỏi sự hợp tác của con người trong lao động sản
xuất, trong đấu tranh xã hội. Ví dụ, trong lao động sản xuất như để săn bắn,
hái lượm có hiệu quả đòi hỏi phải có sự cộng tác của nhiều người khác, trong
chống chọi với thiên nhiên cũng đòi hỏi sự hợp tác của nhiều người. Sự hợp tác
của con người trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa hề tính tới lợi ích cá
nhân. Tất cả những cái gì có lợi cho cộng đồng đều được coi là thiện, ngược lại
cái gì trái với lợi ích đó đều bị coi là ác. Mọi suy nghĩ của mọi thành viên
đều rất vô tư, trong sáng, không một chút vị kỷ.
b. Đạo đức
trong xã hội chiếm hữu nô lệ
Trong các xã hội có sự phân chia giai cấp, đạo đức
cũng mang tính chất giai cấp. Sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa các giai cấp
dẫn tới sự đối lập trong quan niệm đạo đức. Giai cấp thống trị về kinh tế xây
dựng những chuẩn mực đạo đức nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp đó, sử dụng các
phương tiện trong bộ máy nhà nước, trong tôn giáo, trong văn học nghệ thuật
nhằm biện hộ cho đạo đức của giai cấp mình. Ngược lại, giai cấp bị trị xây
dựng đạo đức nhằm chống lại những bất công và tình trạng áp bức bóc lột trong
xã hội. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai
cấp chủ nô là giai cấp nắm tư liệu sản xuất vật chất của xã hội, nó đồng thời
cũng là giai cấp nắm giữ những công cụ sản xuất tinh thần, văn hóa.
Cho nên, hoàn toàn dễ hiểu, các lý thuyết đạo đức khác nhau ra đời ở thời đại
này đều nhằm ca ngợi, bảo vệ cho chế độ chiếm hữu nô lệ. Các lý thuyết đó cho
rằng chỉ có chủ nô mới có đạo đức, còn những người nô lệ là vô đạo đức. Sự
phản kháng của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô đều bị coi là trái với
đạo đức, cần phải chống lại bằng mọi hình thức.
Trong thời kỳ này quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã
dần bị mất đi. Cùng với sự xuất hiện của xã hội có áp bức giai cấp đầu tiên đó
cũng là sự chuyển biến dần dần của xã hội sang chế độ phụ quyền với sự khẳng
định vai trò quyết định của đàn ông đối với đàn bà. Cho nên, những lý luận đạo
đức trong thời kỳ này cũng nêu ra các chuẩn mực đạo đức yêu cầu sự phục tùng,
sự chung thủy của người phụ nữ. Người nô lệ nói chung, người phụ nữ nói riêng
trở thành vật mua bán, trao đổi trong tay giai cấp chủ nô thống trị.
c. Đạo đức
trong xã hội phong kiến
Trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ phong kiến
đã trở thành giai cấp thống trị xã hội do nắm được những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội là ruộng đất. Giai cấp nông dân phải phụ thuộc, lệ thuộc vào
giai cấp địa chủ phong kiến do họ không có ruộng đất. Mặc dù vậy, trong xã hội
phong kiến, người nông dân cũng có phần được tự do hơn so với người nô lệ
trong xã hội chiếm hữu nô lệ trước đây. Họ đã được tự canh tác trên mảnh ruộng
của mình và trên mảnh ruộng mà họ làm thuê của địa chủ phong kiến.
Để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp địa chủ
phong kiến đã xây dựng những chuẩn mực đạo đức kết hợp, đan xen chặt chẽ với
những chuẩn mực tôn giáo nhằm thiết lập một trật tự xã hội với sự ràng buộc
ngặt nghèo của những chuẩn mực đạo đức, tôn giáo từ gia đình tới cộng đồng và
xã hội. Thực tế, trong xã hội Tây Âu thời trung cổ, những tín điều của tôn giáo
đã chi phối những tư tưởng đạo đức của xã hội. Các vua chúa, quý tộc thường lợi
dụng giáo lý của nhà thờ, lợi dụng đạo đức Thiên chúa giáo để củng cố quyền lực
của mình. Họ tuyên truyền rằng vua là đại diện cho sức mạnh của Chúa, ai chống
vua là chống lại ý Chúa và sẽ bị Chúa trừng phạt. Nghĩa vụ của người dân là
làm theo lời răn của Chúa, phải vâng phục chính quyền. Họ đã xây dựng một hệ
thống giáo dục gắn chặt giữa nhà thờ với trường học. Còn ở phương Đông phong
kiến, chẳng hạn ở Trung Quốc các giá trị đạo đức Nho giáo đóng vai trò to lớn
trong đời sống xã hội, mọi quan hệ xã hội được xử sự theo hệ thống chuẩn mực
của đạo đức Nho giáo. Chẳng hạn, đòi hỏi về mặt đạo đức trong quan hệ vua tôi,
cha con, chồng vợ là sự phục tùng tuyệt đối của bề tôi với nhà vua, của con cái
với cha mẹ, của người vợ đối với người chồng. Thực chất, hệ thống chuẩn mực đó
là sự duy trì, bảo vệ chế độ phong kiến hiện hành.
d. Đạo đức
trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Chế độ tư bản chủ nghĩa thay thế chế độ phong kiến
thì đạo đức của giai cấp tư sản thay thế cho đạo đức của giai cấp địac chủ
phong kiến và giữ vai trò thống trị trong xã hội. Giai cấp tư sản cần lao động
làm thuê, họ đã đề cao tự do cá nhân, đòi hỏi giải phóng cho con người về mặt
thể xác. Người lao động làm thuê trong xã hội này tuy không còn phụ thuộc về
mặt thể xác như người nô lệ, hay người nông dân trước đây, họ được tự do bán
sức lao động cho nhà tư bản. Nhưng bản thân họ lại bị biến thành một giai cấp
nô lệ mới, lệ thuộc vào guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho nên, khẩu hiệu
tự do mà giai cấp tư sản nêu lên, xét cho cùng, cũng chỉ là tự do bán sức lao
động của người công nhân, tự do bóc lột của giai cấp tư sản, tự do xâm lược
của nước này với nước khác. Giai cấp tư sản đề cao quan hệ đồng tiền, vì
tiền người ta có thể làm tất cả. Quan hệ đồng tiền nhấn chìm những quan hệ
khác như quan hệ cha con, anh em, bạn bè. Quan hệ xã hội trong chủ nghĩa tư
bản dựa trên những tính toán vị kỷ, lối trả tiền ngay không tình nghĩa. Ngay
quan hệ hôn nhân dưới chủ nghĩa tư bản cũng bị biến thành quan hệ mua bán đơn
thuần.
Từ thiết chế xã hội, tất cả các phương tiện báo chí,
phát thanh truyền hình đều được giai cấp tư sản sử dụng để tuyên truyền cho
lối sống tư sản, cho việc phổ biến những giá trị đạo đức của giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản nêu lên khẩu hiệu bình đẳng, nhưng chính họ lại là người vi
phạm những nguyên tắc đó. Các học giả tư sản ra sức tuyên truyền rằng xã hội
loài người cũng như quá trình tiến hóa sinh vật, kẻ nào mạnh thì sống, kẻ nào
yếu thì chết. Quan niệm đó cổ vũ cho những cuộc chiến tranh xâm lược, chà đạp
quyền và tự do chân chính của con người. Tất nhiên, bên cạnh đạo đức của giai
cấp tư sản giữ vai trò thống trị, trong xã hội tư sản vẫn còn tồn tại đạo đức
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Đạo đức của giai cấp công nhân nêu
cao tinh thần đấu tranh chống bất công, chống áp bức, bóc lột của giai cấp này
với giai cấp khác, dân tộc này với dân tộc khác. Đó chính là mầm mống cho đạo
đức cộng sản chủ nghĩa sau này khi chế độ tư bản chủ nghĩa bị tiêu diệt.
e. Đạo đức
trong xã hội cộng sản chủ nghĩa
Cùng với sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đạo đức của giai cấp công nhân dần dần trở thành đạo đức thống trị trong xã
hội. Đó là kiểu đạo đức của giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, có ý thức
kỷ luật và tinh thần quốc tế cao cả. Tuy nhiên, sự xuất hiện của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, phức tạp, trải qua rất nhiều giai đoạn,
thực chất là cuộc đấu tranh gay go quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa tiến
bộ và lạc hậu... Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đạo đức cộng
sản chủ nghĩa sẽ ngày càng củng cố và phát triển.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn cao, là sự
thay đổi về chất trên con đường phát
triển không ngừng của đạo đức nhân loại. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa khác tất cả
những nền đạo đức trong các xã hội có giai cấp trước đây, đó là nền đạo đức dựa
trên cơ sở xóa bỏ mọi đối kháng giai cấp, mọi áp bức, bóc lột, xóa bỏ mọi sự
tha hóa của con người, vì mục đích phát triển toàn diện con người và xã hội.
Đương nhiên, đạo đức cộng sản chủ nghĩa cũng là sự kế
thừa tất cả những gì là tốt đẹp trong các nền đạo đức trước đây, những giá trị
đạo đức vốn có trong đạo đức của quần chúng nhân dân lao động. Bởi vì, người
đại diện cho nền đạo đức tiên tiến đó chính là giai cấp công nhân, giai cấp có
sứ mệnh lịch sử là tiêu diệt mọi sự áp bức, bóc lột, giải phóng con người, giải
phóng xã hội. Rất tự nhiên, giai cấp công nhân trở thành đại biểu chân chính
cho lợi ích của toàn thể quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh
chống lại xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chính điều này làm cho đạo đức cộng
sản chủ nghĩa tương lai chứa đựng rất nhiều nhân tố đạo đức tiến bộ, có giá trị
chung của nhân loại. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa ngày càng trở thành một nền đạo
đức mang tính phổ biến cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh chống mọi thế lực
và truyền thống của xã hội áp bức, bóc lột cũ, xây dựng xã hội mới không còn áp
bức, bóc lột, không còn đối kháng giai cấp.
2. Mối quan hệ giữa
đạo đức với một số hình thái ý thức xã hội khác
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội do tồn tại
xã hội quy định, đạo đức có quan hệ chặt chẽ và có sự tác động lẫn nhau với
những hình thái ý thức xã hội khác, như chính trị, pháp luật, nghệ thuật, tôn
giáo, khoa học, triết học. Cho nên, để hiểu rõ đời sống đạo đức của xã hội cần
phải đặt nó trong mối quan hệ phức tạp với các hình thái ý thức xã hội khác. ở
đây chỉ xin giới thiệu mối quan hệ của đạo đức với một số hình thái ý thức xã
hội.
a. Quan hệ
giữa đạo đức với chính trị
Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận
xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối
với xã hội. Đạo đức xuất hiện rất sớm, ngay từ khi xuất hiện xã hội loài người,
khi chưa xuất hiện giai cấp, nhà nước đã xuất hiện những quan niệm về những
điều kiêng kỵ, tôn trọng những phong tục tập quán trong cộng đồng nguyên thủy.
Thời kỳ đó, đạo đức giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều khiển hành
vi của con người.
“Chính trị là
những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước,
và mối quan hệ về mặt nhà nước giữa các quốc gia với nhau, là những hoạt động
của một giai cấp, một tập đoàn, một chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành
hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước, là những hoạt động nhằm nâng
cao giác ngộ chính trị cho quần chúng v.v...”[8].
Chính trị chỉ xuất hiện khi xã hội xuất hiện giai cấp, nhà nước. Chính trị giữ
vai trò quan trọng trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tham gia điều chỉnh
cả quan hệ đạo đức, biến những quan hệ đạo đức từ chỗ thuần túy mang tính chất
cá nhân với xã hội, với cộng đồng thành những quan hệ mang tính giai cấp, phục
vụ cho lợi ích của một giai cấp nhất định, chịu sự chi phối của ý thức chính
trị.
Đạo đức nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong
mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân này với các cá nhân khác, hay giữa các cá nhân
với cộng đồng xã hội sao cho lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thống nhất, hài
hòa với nhau. Chính trị nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa tập đoàn người này
với tập đoàn người khác: lợi ích giữa các giai cấp, lợi ích giữa các dân tộc,
lợi ích giữa các quốc gia. Do vậy, sự điều chỉnh hành vi của đạo đức đối với
con người diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi trong gia đình, ngoài xã hội, trong cách
xưng hô, ứng xử... Còn chính trị chỉ điều chỉnh hành vi con người trên một số
lĩnh vực, trong quan hệ giữa tập đoàn người này với tập đoàn người khác liên
quan đến việc nắm giữ bộ máy quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích của mình.
Sự tồn tại của đạo đức là vĩnh viễn dù xã hội có giai
cấp, nhà nước hay không, vì con người luôn luôn phải điều chỉnh và đánh giá
hành vi của mình trong mối quan hệ với người khác, với cộng đồng xã hội. Còn chính
trị thì chỉ tồn tại khi xã hội còn giai cấp và nhà nước.
Bên cạnh sự khác biệt giữa đạo đức và chính trị như
đã nêu ở trên, giữa chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau. Chính trị của một
giai cấp bao giờ cũng phải dựa vào cơ sở đạo đức để củng cố quyền lực của mình,
là sự thể hiện tập trung nhất lợi ích kinh tế của giai cấp cầm quyền. Những lợi
ích đó chỉ bền vững khi đồng thời nó thể hiện như những lợi ích chung của xã
hội, hàm chứa trong đó những giá trị đạo đức, nhân văn. Giai cấp thống trị muốn
tăng cường sức mạnh của mình cần thiết xây dựng hệ thống giá trị đạo đức, xây
dựng đội ngũ quan lại với những nội dung nhằm củng cố chế độ của họ. Trong xã
hội phong kiến giá trị đó là trung quân ái quốc, cấp dưới phục tùng cấp trên.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa họ đề cao tự do cá nhân, đề cao vai trò của đồng
tiền, thừa nhận và thúc đẩy cho sự cạnh tranh quyết liệt trong xã hội. Nhà tư
tưởng người Pháp Môngtexkiơ đã khẳng định đạo đức nếu xa rời chính trị sẽ mất
hết nội dung. Ngược lại, trong một xã hội nếu những nhà chính trị quan tâm tới
giữ gìn và phát triển đạo đức của mình, quan tâm tới phát triển đạo đức xã hội
thì đạo đức sẽ phát triển tốt.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
việc xây dựng một nền đạo đức mới, tiến bộ của giai cấp công nhân là một nhiệm
vụ vô cùng cấp thiết. Chúng ta phải xây dựng cho được những con người mới, xây
dựng một đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ. Mặt khác, chúng ta phải quan tâm tới những vấn đề chính trị tạo nên sự hài
hòa về lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Nền chính trị ổn định sẽ
tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đạo đức xã hội. Sự nhất trí về
chính trị và tinh thần là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển trên mọi mặt,
trong đó có đạo đức.
b. Quan hệ
giữa đạo đức với pháp luật
Pháp luật là những quy phạm hành vi do nhà nước ban
hành mà mọi người buộc phải tuân theo, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và
bảo vệ trật tự xã hội. Với tư cách là các hình thái ý thức xã hội, giữa đạo đức
và pháp luật có nhiều điểm khác biệt. Pháp luật do giai cấp thống trị đặt ra
buộc mọi người tuân theo nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị trong xã hội, bảo
vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, cho nên trong một xã hội bao giờ cũng chỉ có
một hệ thống luật pháp. Trong khi đó, đạo đức do cả giai cấp thống trị và cả
quần chúng nhân dân tạo ra, cho nên, ở một xã hội có nhiều quan niệm đạo đức
bao gồm cả đạo đức của giai cấp thống trị và đạo đức của giai cấp bị trị.
Đạo đức điều chỉnh hành vi con người bằng phong tục,
tập quán bằng sức mạnh của dư luận xã hội, do vậy nó mang tính chất tự nguyện,
tự giác, tức là đòi hỏi chủ thể đạo đức suy nghĩ, tự suy xét lương tâm, tự
điều chỉnh hành vi của mình. Nó điều chỉnh hành vi con người mọi lúc mọi nơi,
cả hiện tại và tương lai. Trái lại, pháp luật là những quy phạm mang tính bắt
buộc, có tính cưỡng chế, chỉ xem xét trên hành vi dựa trên những quy phạm pháp
luật. Trong đạo đức, các chuẩn mực và hành vi đạo đức hòa quyện vào nhau, trên
cơ sở nhận thức về những chuẩn mực đạo đức con người điều chỉnh hành vi của
mình. Nhìn chung, đạo đức không những chỉ cho con người phân biệt được cái
tốt, cái xấu mà còn chỉ yêu cầu con người hành động một cách trung thực, đúng
đạo lý, cho nên khi điều chỉnh hành vi con người, đạo đức thường mang tính
định hướng. Pháp luật quy định hành vi nào của con người được thực hiện, hành
vi nào không được thực hiện, do vậy, nó hướng dẫn một cách cụ thể chi tiết
những hành vi của con người. Điều chỉnh hành vi của con người bằng đạo đức mang
tính chất tình cảm, đi vào chiều sâu, khuyến khích con người làm việc tốt,
nhiệt tình giúp đỡ bạn bè, còn điều chỉnh bằng pháp luật mang tính lý trí, cứng
rắn, bắt buộc. Điều chỉnh hành vi của con người bằng đạo đức phụ thuộc vào
quan hệ giữa chủ thể và khách thể đạo đức. Pháp luật quy định rõ hành vi nào được
làm, hành vi nào không được làm đối với bất cứ ai. Sự khác nhau giữa đạo đức và
luật pháp còn thể hiện ở hậu quả của nó. Khi một người phạm pháp sẽ bị áp dụng
chế tài bằng sự cưỡng chế của nhà nước, còn vi phạm đạo đức chỉ bị dư luận
lên án. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, dư luận xã hội lại có vai trò rất
quan trọng trong điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức tồn tại trong mọi xã
hội, cả trong xã hội có giai cấp và không có giai cấp. Pháp luật chỉ tồn tại
trong xã hội có giai cấp. Tới xã hội cộng sản chủ nghĩa, luật pháp sẽ dần dần
biến mất khi giai cấp và nhà nước dần dần mất đi.
Đạo đức và pháp luật quan hệ gắn bó với nhau, bổ sung
cho nhau để điều chỉnh hành vi con người. Giữa luật pháp và đạo đức đều là
hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, do vậy trong xã hội có giai
cấp và đối kháng giai cấp thì cả luật pháp và đạo đức đều mang tính chất giai
cấp. Cả luật pháp và đạo đức đều tham gia điều chỉnh hành vi con người, với
mục đích sao cho xã hội phát triển ổn định. Pháp luật và đạo đức có những
phương thức điều chỉnh hành vi con người khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Có những hành vi bị cả luật pháp và đạo đức lên án như hành vi trộm
cắp hay giết người. Những hành vi đó bị người đời lên án về đạo đức, trừng
phạt bằng pháp luật. Pháp luật điều chỉnh hành vi con người ở mức tối thiểu
nhằm đảm bảo cho xã hội phát triển ổn định, còn đạo đức điều chỉnh hành vi ở
mức tối đa với mong muốn làm cho con người ngày càng hoàn thiện, nhân đạo.
Pháp luật là biểu hiện lợi ích trong đó đặc biệt lợi
ích kinh tế của giai cấp cầm quyền, cho nên một mặt nó phản ánh tình hình kinh
tế - xã hội của đất nước, nhưng mặt khác pháp luật phải mang đạo đức trong đó,
pháp luật giúp người ta sống nhân văn, nhân đạo hơn, dễ đi vào đời sống xã
hội, dễ được nhân dân chấp nhận, có ảnh hưởng to lớn hơn. Đạo đức một mặt phản
ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác nó chứa đựng
những giá trị đạo đức truyền thống, mang những nét đặc thù của văn hóa mỗi dân
tộc. Song đạo đức của các vùng, các nước, các dân tộc dù có khác nhau tới đâu
song đều phải dựa trên yêu cầu của luật pháp, đòi hỏi phải tuân thủ pháp luật.
Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa đạo đức và pháp luật, khi giải quyết phải
dựa trên những yêu cầu của pháp luật.
Pháp luật thực
hiện nghiêm túc thì xã hội kỷ cương nề nếp, những cái tốt, những việc làm
thiện được trân trọng, được cổ vũ, được phát huy, những việc làm ác bị pháp
luật trừng trị nghiêm khắc, những việc làm xấu được xử lý kịp thời, góp phần
làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội; duy trì, củng cố đạo đức xã hội. Ví dụ,
trong xã hội ta những việc làm không đúng như lấn chiếm đất đai, vi phạm trật
tự an toàn giao thông, những hành vi làm ô nhiễm hay phá hủy môi trường sống
bị trừng phạt nghiêm khắc, sẽ góp phần phát triển lành mạnh đời sống đạo đức xã
hội. Khi thực thi pháp luật một cách nghiêm minh đi đôi với giáo dục đạo đức từ
trong gia đình, nhà trường, xã hội chúng ta mới từng bước lập lại được trật
tự kỷ cương xã hội, những giá trị đạo đức tốt đẹp mới được tôn trọng, lòng
dân mới an.
c. Mối quan
hệ giữa đạo đức với tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một
cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Qua
sự phản ánh của tôn giáo, sức mạnh của tự nhiên trở thành lực lượng siêu nhiên
và thần bí. Tôn giáo là một hệ thống giáo lý, là những lễ nghi thể hiện sự sùng
bái của con người đối với một vị thần linh nào đó.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội mang tính nhân
bản sâu sắc để hướng hành vi con người tới cái thiện. Do vậy, đạo đức không
chỉ tồn tại trong lý trí mà còn đi sâu vào tình cảm, trở thành niềm tin, lý tưởng,
thành trách nhiệm, thành nghĩa vụ, mang tính tự giác của con người
Đạo đức và tôn giáo đều hướng con người tới điều tốt
đẹp, khuyên người ta làm điều thiện.
Tôn giáo ra đời do những đau khổ, những sự bất lực của con người trước sức
mạnh của tự nhiên, của xã hội. Do vậy, nó phản ánh khát vọng của con người
muốn thoát khỏi những cảnh bần hàn, khổ cực, khát vọng cứu giúp những kẻ bất
hạnh, những số phận thiệt thòi trong xã hội. Nhiều tôn giáo đưa ra giáo lý, lễ
nghi, điều răn chứa đựng nhiều quan niệm đạo đức thể hiện khát vọng hạnh phúc
của nhân loại như khuyên người ta làm điều thiện, tránh điều ác, khuyên người
ta sống chung thủy vợ chồng, bạn bè sống có nghĩa có tình với nhau, khuyên người
ta sống chân thật với nhau, không giả dối. Nhiều quan niệm đạo đức trong tôn
giáo đi vào trong đời thường, quy định hành vi ứng xử của con người từ trong
gia đình tới ngoài xã hội.
Đạo đức và tôn giáo là những hình thái ý thức xã hội
khác nhau, bởi lẽ đạo đức xuất hiện từ khi xã hội loài người xuất hiện để điều
chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên trong thị tộc. Tôn giáo mới xuất hiện
khoảng 3000 năm, khi mà con người có khả năng xây dựng được hình ảnh những vị
thần mà họ tôn thờ. Đạo đức chỉ phản ánh một cách trung thực hiện thực khách
quan, phản ánh những nhu cầu thiết thân của đời sống kinh tế xã hội, còn tôn
giáo phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
người.
Giữa đạo đức và
tôn giáo có quan hệ khăng khít với nhau. Tôn giáo thông qua giáo lý, giáo luật
làm phương tiện truyền bá, phát triển đạo. Nó đã trở thành nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Phật giáo tuyên truyền cho sự bình đẳng, tuyên truyền
cho lòng từ bi, hỉ xả để làm cho nó được phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Thiên chúa giáo thông qua giáo lý, những điều răn của giáo hội, khuyên người ta
chung thủy, sống tình nghĩa, tinh thần bác ái theo lời dạy của Chúa... để phát
triển ảnh hưởng của nó trong xã hội.
Tôn giáo và đạo đức đều quan tâm tới những nỗi khổ,
những bất hạnh của con người, mong cứu vớt con người ra khỏi những bất hạnh
đó. Nhưng đạo đức cho rằng phải bằng rèn luyện của mỗi người, tu dưỡng, đấu
tranh với những cái xấu, thông qua đấu tranh xã hội và lao động sản xuất. Trong
khi tôn giáo khuyên người ta cam chịu, hoặc trông chờ vào một vị thần linh nào
đó. Thiên chúa giáo trông chờ sự trừng phạt của Chúa với những hành động tội
lỗi của một số người. Do vậy, tôn giáo làm nhụt ý chí đấu tranh, làm tiêu tan
nghị lực, hay kêu gọi con người cam chịu, thông qua thực nghiệm tâm linh chứ
không phải bằng thực tiễn cách mạng qua hoạt động sản xuất, chiến đấu.
Các học thuyết đạo đức chân chính đều hướng con người
tới cái thiện, lên án những cái ác, luôn luôn phấn đấu cho tình hữu nghị, sự
đoàn kết giữa các dân tộc, sự bình đẳng giữa các quốc gia. Do các tôn giáo vì
lợi ích cục bộ của mình, do những quan niệm cực đoan nên đã dẫn tới sự mâu
thuẫn, thậm chí dẫn tới xung đột cộng đồng sắc tộc, tôn giáo. Đó là nguyên nhân
dẫn tới sự xung đột giữa các quốc gia, xung đột khu vực trên thế giới hiện nay.
Các thế lực chính trị lợi dụng điều đó để thực hiện những mục đích chính trị,
làm cho vấn đề tôn giáo vốn đã phức tạp, nhạy cảm lại càng trở nên phức tạp như
hiện nay.
Ngày nay, ở nước ta tôn giáo vẫn đang tồn tại những
hoạt động của các tổ chức tôn giáo sôi động hơn trước đây. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
Đảng ta khẳng định tự do tôn giáo, cần phải hướng các tôn giáo hoạt động sao
cho thực hiện được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh", tăng cường khối đoàn kết dân tộc. Kiên quyết đấu tranh
chống lại những kẻ lợi dụng tôn giáo nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, làm hủy
hoại những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
d. Mối quan
hệ giữa đạo đức với nghệ thuật
Đạo đức và nghệ thuật đều là những hình thái ý thức xã
hội có từ rất sớm trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nghệ thuật bắt nguồn
từ cuộc sống lao động, trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người,
thể hiện ước mơ, khát vọng vươn lên hạnh phúc.
Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
dùng hình tượng cụ thể và sinh động để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng
tình cảm của con người. Ban đầu, nội dung và hình thức nghệ thuật còn sơ khai,
giản đơn nhưng nó đã khắc họa được sinh hoạt xã hội của con người thể hiện nhu
cầu tinh thần hết sức phong phú của các cộng đồng nguyên thủy. Khi sản xuất
phát triển, nền văn minh nhân loại cũng ngày càng phát triển rực rỡ hơn, như
văn minh Hy Lạp - La Mã cổ đại, Trung Hoa, ấn Độ cổ đại thì nghệ thuật có nội
dung ngày càng sâu sắc, hình thức trở nên đa dạng, phong phú. Từ cảm hứng cuộc
sống, con người với bao trăn trở, đam mê, hoài bão, lý tưởng, hạnh phúc và bất
hạnh của mình, nhờ hình tượng nghệ thuật, đã hóa thân vào những tác phẩm nghệ
thuật bất hủ, lưu truyền mãi mãi cho hậu thế. Những tác phẩm đó là sự phản ánh
có tính lựa chọn, tổng hợp, sáng tạo mang hơi thở của thời đại, là những biểu
tượng kiệt xuất về con người và cuộc sống, thể hiện những giá trị chân, thiện,
mỹ. Đó là nghệ thuật chân chính, nghệ thuật vị nhân sinh, phản ánh chân thành
cuộc sống.
Ngay từ buổi sơ khai của lịch sử, nghệ thuật đã gắn bó
chặt chẽ với đạo đức, đã trở thành một phương tiện quan trọng để chuyển tải
những giá trị đạo đức, những giá trị nhân bản của con người. Thông qua nghệ
thuật con người có thể bày tỏ ý hướng, thái độ, sự phán xét, sự ngợi ca, khen
chê của mình đối với người khác, phân biệt cái thiện và cái ác, hạnh phúc và
bất hạnh, lương tâm và vô lương tâm... Điều này là hoàn toàn tự nhiên bởi lẽ,
cái đẹp trong nghệ thuật sở dĩ là cái đẹp vì nó chứa đựng trong mình cái chân, cái
thiện. Cái đẹp không bao hàm cái thiện, không gắn chặt với cái thiện là cái đẹp
vô hồn, vô cảm và không phải là cái đẹp theo đúng nghĩa của nó. Ngược lại,
những giá trị đạo đức cao cả, cái thiện từ bao đời nay đã làm say mê lòng
người, cuốn hút con người không chỉ xuất phát từ bản thân chúng mà còn do chúng
đã bao hàm cái đẹp. Cái thiện thiếu đi cái đẹp không thể trở thành cái thiện
của lòng nhân ái. Nói tóm lại, giữa đạo đức và nghệ thuật không thể tách rời
hay đối lập lẫn nhau, trái lại chúng luôn gắn bó với nhau, nương tựa nhau, thúc
đẩy nhau cùng phát triển.
Từ đó có thể nhận thấy chủ trương xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và hoàn
thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay cũng bắt nguồn từ việc nhận thức
một cách sâu sắc mối quan hệ giữa nghệ thuật và đạo đức. Đảng ta khẳng định
nghệ thuật là một mặt của văn hóa không thể không tác động đến đạo đức cá nhân
và xã hội, ngược lại những nghệ sĩ chân chính cần phải có cái tâm và tầm mới
đem lại giá trị cho đời, có ích cho con người. Điều này hoàn toàn xa lạ với
khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, khuynh hướng muốn tách rời nghệ thuật
khỏi đời sống xã hội, khỏi văn hóa, khỏi đạo đức.
Chương 2
một số phạm trù cơ bản của đạo đức
học
I. Nhận thức chung về phạm
trù đạo đức học
1. Định nghĩa phạm trù đạo
đức học
Bất
cứ một môn khoa học nào cũng được xây dựng trên một hệ thống các phạm trù, quy
luật. Đạo đức học là một khoa học nên có đối tượng nghiên cứu và một hệ thống
phạm trù, quy luật riêng. Đời sống xã hội loài người biểu hiện ra thông qua các
quan hệ xã hội muôn hình, nghìn vẻ rất đa dạng, phức tạp. Vì thế, con người
luôn phải xây dựng cho mình những quan niệm chung, những chuẩn mực định hướng,
thống nhất các giá trị đạo đức để điều chỉnh các mối quan hệ, giao tiếp, ứng xử
với nhau. Vì thế, các phạm trù đạo đức học được hình thành do đòi hỏi khách
quan của đời sống đạo đức xã hội.
Phạm
trù đạo đức học là khái niệm đạo đức cơ bản phản ánh những đặc tính căn bản,
những phương diện và quan hệ phổ biến nhất của những hiện tượng đạo đức trong
đời sống hiện thực.
Cùng
với sự phát triển của lịch sử, nội dung các phạm trù đạo đức học luôn được bổ
sung và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Thông qua các phạm trù đạo đức
học chúng ta có thể nhận thức, đánh giá các hành vi của con người về phương
diện đạo đức. Và, cũng trên cơ sở các phạm trù đạo đức học, chúng ta có thể
nghiên cứu, tìm hiểu đời sống đạo đức của các chế độ xã hội trong lịch sử.
Mặc
dù còn những quan điểm khác nhau về số lượng và thứ tự giữa chúng, nhưng nhìn
chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất thừa nhận một số phạm trù cơ bản của đạo
đức học như: lẽ sống, hạnh phúc, nghĩa vụ đạo đức, lương tâm, thiện và ác...
2. Đặc điểm của các phạm trù đạo đức học
Quyết định luận duy vật lịch sử khẳng định:
các phạm trù đạo đức học được khái quát hoá từ hiện thực đời sống đạo đức của
xã hội, là sự phản ánh khái quát những hiện tượng và nhu cầu đạo đức của đời
sống xã hội, gắn liền với sự phát triển của điều kiện kinh tế- xã hội ở những
giai đoạn lịch sử nhất định. Vì thế, nội dung của các phạm trù đạo đức học mang
tính khách quan, các phạm trù đạo đức học chẳng qua chỉ là tồn tại của lĩnh vực
đạo đức xã hội được khái quát hoá mà thôi. Đặc điểm này cũng giống như phạm trù
của các môn khoa học khác.
Khác với các phạm trù của các khoa học khác,
phạm trù đạo đức học chứa đựng nội dung thông báo và nội dung đánh giá về các
hành vi đạo đức, đồng thời mang tính lịch sử và tính giai cấp. ở các thời đại
khác nhau, giữa các giai cấp khác nhau lại có những thái độ khác nhau về các
giá trị hành vi đạo đức. Đạo đức học là khoa học nghiên cứu về cái thiện và hướng
thiện cho con người, các phạm trù đạo đức học là sự khái quát dưới hình thái ý
thức các hiện tượng đạo đức trong đời sống hiện thực và xác lập quan niệm của
con người về những hiện tượng đó. Vì vậy phạm trù đạo đức học ngoài ý nghĩa
thông tin nó còn bao hàm sự đánh giá và định hình các giá trị hành vi của con
người. Nó đem lại nhận thức về các chuẩn mực giá trị hành vi trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Nói cách khác nhờ có các phạm trù của đạo đức học chúng
ta có thể nhận diện, thẩm định và đánh giá giá trị hành vi của con người. Các
phạm trù đạo đức học vừa thể hiện nội dung tri thức đạo đức vừa chứa đựng thái
độ, tình cảm, xúc cảm đạo đức của con người. Chẳng hạn, khi nói tới cái thiện
và cái ác, hạnh phúc và bất hạnh, lương
tâm và bạo tàn…chúng ta luôn bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ cho những gì thuộc về
hạnh phúc, lương tâm và cái thiện...
Các
phạm trù đạo đức học mang tính khái quát hoá, trừu tượng hoá. Nó không chỉ là
kết quả tư duy lý tính, mà còn hàm chứa xúc cảm, tình cảm của con người trước các
hiện tượng đạo đức. Tính chất lí tính của phạm trù đạo đức giúp con người phân
biệt được cái đúng, cái sai, cái thiện và cái ác, còn tình cảm đạo đức tạo cho
con người niềm tin, sự tự nguyện, đức hy sinh và lý tưởng đạo đức. Bởi một hành
vi đạo đức vừa được thúc giục của tri thức đạo đức vừa xuất phát từ tình cảm
đạo đức của chủ thể. Các phạm trù đạo đức học bồi đắp tình cảm đạo đức để chủ
thể hành động vì những lý tưởng đạo đức cao đẹp. Vì thế khi nói đến hạnh phúc hay khổ đau, thiện hay ác, thì đó không
chỉ là những khái niệm lôgíc thuần tuý mà còn thể hiện thái độ tình cảm của con
người trước các vấn đề mà phạm trù đạo đức học đã khái quát.
Các
phạm trù đạo đức học mang tính phân cực: hoặc là khẳng định hoặc phủ định về giá trị một hành vi nào đó. Nói
đến đạo đức là nói đến tính xác định về giá trị hành vi. Tính phân cực thể hiện
ở sự phân biệt ranh giới rõ ràng, hoặc là thiện hoặc ác; hạnh phúc hoặc bất
hạnh; lương tâm hay vô lương tâm. Vì vậy các phạm trù cơ bản của đạo đức có ý
nghĩa rất quan trọng để điều chỉnh ý thức tự giác trong động cơ và hành động
của con người. Việc lựa chọn hành vi đạo đức luôn đòi hỏi năng lực tự giác rất
cao của chủ thể.
II.
nội dung các phạm trù cơ bản của đạo đức học
1. Phạm trù lẽ
sống ( ý nghĩa cuộc sống)
a. Những quan niệm
ngoài Mácxít về lẽ sống
Ngay từ xa xưa, khi loài người đạt đến trình
độ tư duy trừu tượng, con người đã đi tìm câu trả lời: Thế nào là lẽ sống chân
chính? Con người cần sống như thế nào là hợp đạo lí? Cuộc sống có ý nghĩa
gì?... Thời Cổ đại: nhà triết học duy vật Êpiquya ( 341- 270 trước Công nguyên)
đã thấy tầm quan trọng của vấn đề lẽ sống đối với đạo đức, rằng con người phải
xây dựng cho mình một lẽ sống chân chính, nhờ đó mà con người làm việc tốt và
giúp ích cho đời. Theo đó, để có lẽ sống cao đẹp con người cần có trí thông
minh, biết lựa chọn đúng lẽ sống của mình và hướng thiện, phải sống thanh thản,
yên tĩnh trong tâm hồn.
Một số nhà Nho Phương đông quan niệm lẽ sống
của con người là phải hành sự theo ý trời, đạo đời là do đạo trời sắp đặt. Sống
ở trên đời con người phải theo đạo Tam cương, Ngũ thường, hành động theo nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín; phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thời kì
Trung cổ Tây âu, các nhà thần học phủ nhận cuộc sống thực tại của con người,
hướng con người đến những lý tưởng hoang đường, hư ảo. Họ hướng tìm lý tưởng
đạo đức trong niềm tin tôn giáo. ý nghĩa tối cao của cuộc sống theo họ là hướng
về thế giới của Chúa. Các quan niệm này ít nhiều biểu hiện tính chất duy tâm về
đạo đức.
Thời
Phục hưng và Thế kỷ ánh sáng (thế kỉ XV- XVIII) xuất hiện hai trường phái trái
ngược nhau: nghĩa vụ luận và hạnh phúc luận.
Trường
phái nghĩa vụ luận cho rằng, lý tưởng tối cao của cuộc sống con người là thực
hiện tốt các nghĩa vụ bổn phận, lí tưởng sống của con người không phải là tìm
kiếm hạnh phúc cho mình mà hy sinh hạnh
phúc cá nhân mình để làm tròn phận sự với người khác. Quan niệm này mặc dù có
hạt nhân hợp lý là thấy được trách nhiệm cá nhân trong cộng đồng, nhưng hạn chế
ở chỗ đẩy con người đến lối sống bị động, một chiều, “ nghĩa vụ vì nghĩa vụ”
một cách mù quáng.
Trường
phái hạnh phúc luận cho rằng, ý
nghĩa cuộc sống của con người là đi tìm hạnh phúc cho riêng mình, đó là lí
tưởng tối cao của đạo đức. Hạt nhân hợp lý của quan niệm này là thấy được vai
trò của hạnh phúc, nhận ra vai trò lợi ích cá nhân song lại không thấy được bổn
phận trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. Quan niệm này dễ dẫn đến lối sống
ích kỷ cá nhân chủ nghĩa.
Từ
giữa thế kỉ XIX trở đi, tồn tại triết lí nhân sinh tư sản tuyệt đối hoá cá
nhân. Nó phản ánh lối sống ích kỉ, tầm thường, cá nhân chủ nghĩa. Lối sống vì
tiền trở thành lẽ sống của xã hội tư bản. Mang bản chất bóc lột, chủ nghĩa tư
bản đã làm cho con người như C.Mác từng nói “chìm ngập trong băng giá của những
tính toán lợi kỉ”, thứ quan hệ “ giao dịch tiền mặt” lạnh lùng, vô lương tâm.
Đối lập với lẽ sống tư sản là lối sống nhân ái, vị tha, sẻ chia của giai cấp
công nhân và những người dân lao động đang đấu tranh lật đổ ách áp bức vô nhân
tính của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nhìn
chung, các quan niệm trước Mác về lẽ sống còn phiến diện, thể hiện ở hai xu
hướng: Thứ nhất, tuyệt đối hoá nghĩa vụ, đề cao quá mức trách nhiệm bổn phận
của cá nhân đối với người khác và với xã hội tới mức thui chột hạnh phúc cá
nhân, làm cho cá nhân trở thành thụ động, lệ thuộc một cách mù quáng, hi sinh
một chiều, cam chịu... Thứ hai, tuyệt đối hoá hạnh phúc cá nhân, con người trở
thành nô lệ của tiền tài, địa vị, những ham muốn ích kỉ. Quan niệm này cổ vũ
cho chế độ bóc lột, vô nhân tính.
b. Quan niệm của đạo
đức học Mác- Lênin về lẽ sống
Có thể xem quan niệm về lẽ sống là nền tảng tinh thần của
con người. Nó chi phối và liên quan đến những nội dung có tính định hướng của
cuộc sống con người như mục đích, lí
tưởng, niềm tin, thái độ, các quan niệm về thiện và ác, về hạnh phúc và bất
hạnh…Thực tiễn cuộc sống cho thấy, không ai không có suy tư về ý nghĩa cuộc
sống. Tuy nhiên, từ cách quan niệm khác nhau về các vấn đề trên mà có thể làm
cho con người trở nên cao thượng, ngược lại cũng có thể kéo con người sa vào tệ
nạn xã hội hoặc trở thành tội phạm.
Lẽ sống là mặt ý thức
của lối sống, nó liên quan đến câu trả lời sống để làm gì, sống như thế nào,
sống cho mình hay sống cho ai? Lẽ sống quyết định hành vi sống, cách ứng xử, từ
lẽ sống con người có nhận thức về cái thiện và cái ác để từ đó xác định trách
nhiệm cá nhân, nghĩa vụ bản thân đối với cộng đồng. Từ góc độ đạo đức học có
thể khái quát có hai quan niệm về lẽ sống: lẽ sống thông thường và lẽ sống đạo
đức.
Lẽ sống thông thường là quan niệm sống của con
người mong sao được thoả mãn một số những nhu cầu nhất định (nhu cầu vật chất,
tinh thần), những ham muốn gắn với nhu cầu của cá nhân. Nói chung lẽ sống thông
thường ít liên quan đến trách nhiệm của con người đối với xã hội và đối với
người khác. Nó là triết lý sống vì “cái tôi”. Quan niệm này dễ dẫn đến lối sống tầm thường, ích kỷ.
Lẽ sống đạo đức là quan niệm sống của con
người, trong đó chứa đựng sự thống nhất hài hoà giữa hạnh phúc và nghĩa vụ, con
người nhận thức được ý nghĩa cuộc sống, tự giác hướng tới những giá trị cao cả,
sống sao cho có ích cho mình và cho xã hội. Nói cách khác, lẽ sống đạo đức là ý
nghĩa cuộc sống mà con người tự nhận thức được và tự giác hành động vì một lý
tưởng đạo đức cao đẹp, dựa trên một nhân sinh quan tiến bộ.
Lẽ sống đạo đức là sự
biểu hiện của tự ý thức cao nhất của con người về cuộc sống của mình, là sự hội
tụ của sự trưởng thành về nhân cách, phát triển về trí tuệ, tri thức và kinh
nghiệm. Khi con người xác định được lẽ sống cao đẹp, họ sẽ vượt qua được khó
khăn trở ngại để vươn lên trong cuộc sống. Nói đến lẽ sống chân chính là nói
đến lẽ sống của những người có nhân cách cao
đẹp trong cuộc sống. Một lẽ sống cao đẹp sẽ đem lại cho con người niềm
lạc quan yêu đời, phát huy khơi dậy ở con người tính tích cực, tự giác, kiên
trì khắc phục khó khăn, khát khao vươn tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Lẽ
sống chân chính được xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích của xã hội và
cá nhân. Tiêu chí thẩm định lẽ sống chân chính là cách giải quyết quan hệ lợi
ích. Mỗi người trong cuộc sống riêng của mình dù có những quan tâm khác nhau,
lợi ích khác nhau song phải biết quan tâm đến lợi ích chung của xã hội, phải có
trách nhiệm cống hiến cho cái chung, vì sự tiến bộ, vì hạnh phúc chung của cộng
đồng. Điều này khẳng định những con người có lẽ sống chân chính luôn có ý thức
cống hiến, phục vụ một cách tự nguyện. Lẽ sống đạo đức biểu hiện ở những phẩm
chất đạo đức cá nhân tiêu biểu như tính trung thực, nhân hậu, dũng cảm, có
lương tâm, được xã hội đánh giá thừa nhận, có uy tín với mọi người. Nó biểu
hiện ở người có niềm tin sâu sắc vào cuộc sống, luôn vững vàng và tin vào những
điều tốt đẹp của cuộc sống.
Lẽ
sống đạo đức có sự thống nhất biện chứng giữa nghĩa vụ và hạnh phúc. ở đây,
hạnh phúc cá nhân được xem như là sự thực hiện nghĩa vụ đối với người khác, đối
với xã hội. Một lối sống đẹp phải mang tính nhân văn sâu sắc. Nó thể hiện và
vận hành theo nguyên tắc ưu tiên lợi ích xã hội, con người biết hy sinh hạnh
phúc riêng của mình vì lợi ích của người khác và lợi ích của xã hội. Một người
có lẽ sống đạo đức thì hành vi của họ không còn bị lệ thuộc bởi cái “tôi” bản
năng, mà họ nhận thức sâu sắc được cái tất yếu đạo đức, dám chịu trách niệm và
sẵn sàng hoàn thành trách nhiệm của mình đối với người khác và với xã hội.
Làm
thế nào để hình thành lẽ sống chân chính? Lao động sản xuất là cội nguồn của lẽ
sống đạo đức. C.Mác đã khẳng định lao động là một trong những điều kiện cơ bản,
đầu tiên sáng tạo ra con người và xã hội loài người. Lao động không chỉ tạo ra
cơ sở duy trì sự tồn tại của con người mà còn giúp cho con người trở thành chủ
thể sáng tạo và hoạt động của con người tuân theo quy luật của cái đẹp. Lao
động đem lại cho con người ý nghĩa cuộc sống, giúp cho con người nhận thức được
giá trị cao quý của lao động, loại bỏ được những thói hư tật xấu như: lười biếng, tham lam, ích kỷ, ăn
bám...đồng thời lao động còn làm gia tăng tính tích cực xã hội của con người
như: lòng nhân ái, tính vị tha, sự cao cả, tính kỷ luật... Lao động hình thành
nên các chuẩn mực đạo đức. Trong hoạt động lao động con người không hoạt động
đơn lẻ mà hình thành những mối liên kết xã hội, con người lần đầu tiên nhận ra
sự cần thiết phải có sự tương trợ hợp tác, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, nhận thức
được quyền lợi và nghĩa vụ, lương tâm và trách nhiệm. ý thức về tính tất yếu
khách quan này dần được “nội tâm hoá” để trở thành một nhu cầu đạo đức, thành
khát vọng thôi thúc con người hành động vươn tới giá trị chân- thiện- mỹ. Với
mỗi cá nhân chỉ có thông qua lao động, học tập, công tác…từ thực tiễn đó mà con
người nhận thức ý nghĩa, giá trị cuộc sống và ý thức về hạnh phúc và nghĩa vụ
từ đó hành động theo các chuẩn mực đạo đức.
Nhìn
chung người có lẽ sống chân chính luôn là người sống có lí tưởng, hoài bão ước
mơ cao đẹp. Nhà triết học duy vật Pháp Điđơrô có lí khi khẳng định: Nếu anh không
có mục đích thì anh không làm được gì cả. Anh cũng sẽ không làm được cái gì vĩ
đại nếu mục đích của anh tầm thường. Có lí tưởng, ước mơ cao đẹp sẽ tạo nên
động lực cho con người vươn lên, vượt qua khó khăn, thách thức, tránh xa những
cám dỗ để sống đẹp, sống có ích.
Trong
xã hội có giai cấp, quan niệm về lẽ sống cũng mang tính giai cấp. Giai cấp
thống trị trong ý thức cũng như trong hành vi tự coi mình là kẻ bề trên có sứ
mệnh cai trị nhân dân. Họ tự cho mình quyền xây dựng lẽ sống riêng, giai cấp phong
kiến là lẽ sống của những kẻ hiếu danh, gia trưởng, “đạo đức giả”; với giai cấp
tư sản, đó là lẽ sống của kẻ có của, có quyền, họ đề cao lẽ sống: mỗi người vì
mình, chúa vì tất cả. Còn người lao động chỉ có nghĩa vụ phục tùng, trung
thành, cam chịu, bằng lòng với địa vị xã hội của mình. Trái lại, lẽ sống của
người lao động là luôn nuôi dưỡng ước mơ hy vọng vào một xã hội lý tưởng, không
có bất công, không có áp bức bóc lột, người lao động được hưởng tự do hạnh
phúc. Chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mới có đủ các điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan cho sự hình thành và hoàn thiện của lẽ sống chân chính. Lẽ
sống của con người mới xã hội chủ nghĩa là lao động sáng tạo ra những giá trị
vật chất, tinh thần cho xã hội, là sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, dân chủ,
dân sinh, và tiến bộ xã hội, vì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Xây
dựng lẽ sống là nội dung cơ bản của nhiệm vụ xây dựng đạo đức mới xã hội chủ
nghĩa. Nhận thức tầm quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực, Nghị quyết X Đảng
cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn
hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống,
năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam ” [9].
Đảng và Nhà nước ta phát động sâu rộng phong trào toàn dân “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Vì
vậy, sinh viên, học sinh nói chung, lý tưởng đạo đức tối cao là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; học tập rèn luyện để lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản
thân, vì tiền đồ đất nước. Tích cực hưởng ứng các phong trào “Nói không với
tiêu cực trong thi cử và căn bệnh thành tích trong giáo dục’. Sống đẹp, sống có
ích, lẽ sống của sinh viên ngày nay thể hiện ở các phong trào hành động cụ thể
như sinh viên thanh lịch, sinh viên tình nguyện, nói lời hay, làm việc thiện,
gương mẫu đi đầu “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”.
Với
người chiến sĩ công an nhân dân, lí tưởng đạo đức tối cao thể hiện ở Năm lời
thề Công an nhân dân, là sống vì hạnh phúc của nhân dân. Vì thế, an ninh cho Tổ
quốc và nhân dân là đối tượng bất biến, suốt đời phục vụ Tổ quốc và nhân dân là
lí tưởng tối cao, là mục tiêu phấn đấu. Người cán bộ công an chỉ hạnh phúc khi
mình làm tròn nhiệm vụ, nhân dân được sống cuộc sống thanh bình. Công an nhân dân trước hết là người cán bộ cách
mạng, Nghị quyết X của Đảng khẳng định:
“ Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc...; có
nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng ; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân”[10]. Để
xây dựng lẽ sống cao đẹp, người
chiến sĩ công an cần xây dựng phong cách, lối sống “Công an nhân dân vì nước
quên thân, vì dân phục vụ”, gương mẫu, tiên phong trong phong trào “Công an
nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
2. Phạm trù hạnh
phúc
a. Những quan niệm
ngoài Mácxít về hạnh phúc
Chủ nghĩa duy tâm - tôn giáo tách hạnh phúc
ra khỏi đời sống hiện thực, họ cho rằng cuộc đời của con người không có hạnh
phúc mà toàn những nỗi bất hạnh khổ đau. Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng:
“đời là bể khổ, tình là dây oan”, thế giới là “vô thường”, con người là “vô
ngã”. Để có được hạnh phúc, tôn giáo khuyên con người cần dốc lòng tu luyện,
nhẫn nhục để khi chết linh hồn được siêu thoát về thế giới cực lạc. Quan niệm
này đã thần bí hoá hạnh phúc, hướng lý tưởng hạnh phúc ở thế giới siêu nhiên
thần thánh. Một số nhà Nho cho rằng, hạnh phúc là do mệnh trời quyết định, rằng
"mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Họ cho rằng con người có số
phận, hạnh phúc và bất hạnh của mỗi con người được sắp đặt bởi ý trời.
Các
nhà duy vật Cổ đại Hy- Lạp như Đêmôcrít cho rằng, hạnh phúc là cái đối lập với
sự dằn vặt khổ đau, là sự thanh thản yên tĩnh trong tâm hồn. Ông quan niệm,
hạnh phúc chính là tinh thần khoẻ khoắn, sung túc, hài hoà, cân đối và không
giận dữ. Theo Đêmôcrít, trí tuệ có thể đem đến hạnh phúc cho con người, ông
nói, sự thông thái sinh ra ba năng lực: đưa ra những quyết định đúng, nói đúng
và làm những việc nên làm. Êpiquya thì phát biểu “ mục đích cuộc sống con người
là hạnh phúc. Hạnh phúc được hiểu là sự vui thú và khoái lạc”. ông khẳng định:
sự bình tâm, thanh thản về tinh thần là biểu tượng cao nhất của sự “ khoái
lạc”, cái đem đến cho con người hạnh phúc là sức khoẻ, con người cần phải biết
giữ gìn sức khoẻ để vượt qua những bất hạnh.
Các
nhà duy vật Pháp thế kỷ XVI- XVIII lại có xu hướng quy hạnh phúc vào sự thoả
mãn nhu cầu cá nhân và loại trừ mọi nỗi khổ đau. Điển hình là Henvetiuyt quan
niệm hạnh phúc là sự thoả mãn thường xuyên nhu cầu vật chất và tinh thần, là sự
hùng mạnh và giàu có.
Các
nhà triết học cổ điển Đức như Cantơ coi hạnh phúc là do định mệnh. Ông thường
nói: hãy để cho mọi người coi hạnh phúc như trời định, rằng hạnh phúc thực thụ chỉ có thể có được trong thế giới tinh thần bên
kia; Hêghen thì phủ nhận hạnh phúc của
người lao động, phủ nhận quyền bình đẳng về hạnh phúc giữa nam và nữ, ông đề
cao cái ác coi đó là động lực của lịch sử. Phoiơbắc cho rằng hạnh phúc là cái
hướng tới của con người song ông không giải thích đúng nguồn gốc thực sự của
hạnh phúc và những bất hạnh, xem xét con người một cách trừu tượng.
b. Quan niệm của đạo
đức học Mác- Lênin về hạnh phúc
Theo
nghĩa rộng, hạnh phúc là sự thoả mãn nhu cầu, nguyện vọng của con người, là cái
đem lại cho con người niềm vui, niềm tự hào sung sướng, là những cảm xúc sâu
sắc, lâu bền về giá trị cuộc sống, về phẩm giá và ý nghĩa cuộc đời.
Hạnh
phúc theo nghĩa cụ thể là cảm xúc vui sướng, thanh thản, phấn chấn của con
người trong cuộc sống khi được thoả mãn các nhu cầu chân chính, lành mạnh cả về
vật chất và tinh thần trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Chủ
nghĩa duy vật lịch sử khẳng định chỉ duy có con người mới biết cảm nhận, suy
nghĩ về hạnh phúc và bất hạnh của mình. Quan niệm về hạnh phúc giữ vai trò định
hướng xác lập đạo đức cho mỗi cá nhân. Nếu quan niệm hạnh phúc là được sống,
được cống hiến nhiều nhất cho người khác, cho xã hội thì từ quan niệm đó con
người sẽ trở nên cao thượng, nhân hậu, vị tha. Còn nếu quan niệm hạnh phúc chỉ
giản đơn là sự thoả mãn những nhu cầu vật chất cá nhân thì tiền bạc, của cải sẽ
là mục tiêu của cuộc sống, người ta sẽ làm bằng mọi cách và mọi giá.
Đạo
đức học Mác- Lênin hết sức coi trọng phạm trù hạnh phúc, vì trong đời sống thực
tiễn xã hội và con người, hạnh phúc có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó là lý
tưởng sống, là ước mơ chân chính của con người, đồng thời là động lực thúc đẩy
con người vươn lên vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Hạnh phúc nói theo lời
của nhà đạo đức học Xô-Viết, đó là " trạng thái của con người mà con người
luôn vươn tới theo khát vọng tự nhiên và, nói cho đúng ra, thì nhờ có trạng
thái này mà con người sống"[11].
Hạnh phúc không chỉ là ước mơ, lí tưởng mà còn hiện diện trong đời sống, đi
cùng với con người và là một nội dung giá trị phổ biến trong đời sống xã hội.
Với ý nghĩa đó, chừng nào cuộc sống vẫn còn tồn tại, sự phát triển của xã hội
vẫn tiếp tục thì hạnh phúc vẫn luôn là khát vọng vươn tới của con người.
Đối
với mỗi cá nhân, có một quan niệm đúng đắn về hạnh phúc sẽ tạo nên động lực
tinh thần cho con người phấn đấu vươn lên. Một tình bạn lớn, một tình yêu đẹp
sẽ nâng cánh cho con người bay lên. Hạnh phúc chân chính tạo ra động lực thúc đẩy con người và xã hội
tiến tới sự hoàn thiện. Một tình bạn chân chính, tình yêu trong sáng cao thượng
trở thành điểm tựa tinh thần giúp cho con người vươn lên trong cuộc sống và làm
cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Làm
thế nào để đem lại hạnh phúc cho con người? Mặt khách quan của hạnh phúc trước
hết là sự thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. C.Mác đã chỉ rõ: con
người là gì, nếu không phải là con người hiện thực, bằng xương, bằng thịt, con
người trong sự thống nhất biện chứng giữa cái sinh học với cái xã hội, thống
nhất giữa cá nhân với cộng đồng. Do đó, cái tạo nên hạnh phúc của con người là
sự thoả mãn các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần trong mối quan hệ chặt
chẽ quy định lẫn nhau giữa cá nhân và cộng đồng xã hội.
Hạnh
phúc không phải là sự hưởng thụ một cách thụ động, mà là sự đấu tranh tích cực
để giành lấy niềm vui cho mình và cho mọi người. Sự thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao làm cho
con người ngày càng hạnh phúc. Vì thế hành vi nào góp phần đáp ứng nhu cầu vật
chất và nhu cầu văn hoá tinh thần một cách chính đáng, cần thiết là những hành
vi đạo đức, bởi nó mang lại hạnh phúc cho con người. Sự nghèo đói, cô đơn luôn
mang đến những điều bất hạnh và hạ thấp nhân phẩm con người.
Mặt
chủ quan đem lại hạnh phúc còn là khi chủ thể luôn có những trăn trở, tìm tòi,
sự nỗ lực vươn tới, đấu tranh, thậm chí cả sự “ trả giá” để tìm kiếm hạnh phúc
chân chính. Aristốt từng khẳng định hạnh phúc tuỳ thuộc vào suy nghĩ và hành
động của bản thân mỗi người, hạnh phúc không tự nhiên mà có. Nhà bác học
Eđinxơn từng nhận xét “ Thiên tài- đó là 95% mồ hôi và nước mắt”. Hạnh phúc phải là sự say mê, sáng
tạo, dám dấn thân. Hêghen đã từng nói: “Không có gì vĩ đại có thể thực hiện
được trong thế giới này nếu không có sự say mê”. Nhà tâm lí học Nga PômiaLốvsky
nói: Hạnh phúc bao giờ cũng ở phía trước, là sự vươn tới; nhu cầu và khát vọng
làm thành ý nghĩa của hạnh phúc. Cuộc sống chứng minh rằng, con người càng bị
hút vào các hoạt động sáng tạo thì cảm giác hạnh phúc càng lớn. Sáng tạo và
cống hiến là hạnh phúc tối cao của con người. Con người chỉ hạnh phúc khi có
trí tuệ và biết sáng tạo ra cái đẹp chứ không chỉ là thưởng thức cái đẹp. Con
người chỉ có hạnh phúc khi làm việc tốt, có được niềm vui đạo đức. Điều đó cho
thấy hạnh phúc là sự vươn tới, là luôn luôn sáng tạo chứ không chỉ là sự thoả
mãn nhu cầu thuần tuý, đơn điệu.
Cội
nguồn của hạnh phúc nảy sinh trong lao động, sinh hoạt sáng tạo của con người. Lao động sáng tạo ra nhu cầu vật chất
và tinh thần đáp ứng nhu cầu thoả mãn ngày càng cao của con người và đem lại
hạnh phúc. Việc thoả mãn những nhu
cầu ngày càng cao làm cho con người ngày càng hoàn thiện về thể chất- tinh
thần- trí tuệ- tài năng... Kết quả đó đưa lại cho con người niềm vui sướng, tự
hào, nâng cao được phẩm giá con người, gắn bó cá nhân với tập thể. Như vậy, xét theo ý nghĩa của toàn xã hội,
mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc cũng như của từng cá nhân cụ thể, chính con người đã
sáng tạo nên hạnh phúc của họ.
Hạnh
phúc của mỗi cá nhân không tách rời với hạnh phúc chung của xã hội. Hạnh phúc
chân chính là đấu tranh vì hạnh phúc chung của con người. Không phải ngẫu nhiên
mà C.Mác khẳng định rằng “hạnh phúc là đấu tranh”. Hạnh phúc cao nhất của con
người chân chính là đấu tranh cho lí tưởng và hạnh phúc chung của xã hội. Chính
cuộc đấu tranh tự giác của giai cấp vô sản vì lý tưởng cộng sản đã làm thành
một nội dung của hạnh phúc, làm cho cuộc sống mang ý nghĩa cao cả. Hạnh phúc
theo quan niệm của C.Mác: “Là hoạt động mang lại nhiều nhất hạnh phúc cho nhân
loại” ; “một người chỉ lao động vì mình thôi thì người đó có thể trở nên một
nhà bác học nổi tiếng, nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con
người thật sự hoàn thiện và vĩ đại… Còn nếu người ấy làm nhiều nhất cho nhân
loại thì hạnh phúc của người đó thuộc về hàng triệu người”. Hạnh phúc chân
chính được xây dựng trên nguyên tắc của sự thống nhất hài hoà giữa lợi ích cá
nhân và xã hội. Người có quan niệm về hạnh phúc đúng đắn là người biết quan tâm
đến hạnh phúc của người khác và của xã hội, qua đó ý thức về hạnh phúc của
mình. Hạnh phúc chân chính của cá nhân không tách rời hạnh phúc xã hội, mà
thuộc về toàn xã hội, hạnh phúc của người này là điều kiện để thực hiện hạnh
phúc của người khác. Nhà dân chủ cách mạng Nga V.G. Bielinxki viết: “Nếu toàn
bộ mục đích cuộc sống của chúng ta chỉ ở hạnh phúc riêng của chúng ta, và hạnh
phúc riêng của chúng ta chỉ ở tình yêu thôi, thì cuộc sống sẽ là một hoang mạc
ảm đạm ngổn ngang những quan tài và những trái tim tan vỡ…”[12].
Tiếp tục tư tưởng này, M.I Kalilin viết: “Kẻ nào muốn có hạnh phúc cá nhân, kẻ
ấy phải là người tham gia vào việc xây dựng hạnh phúc toàn dân. Và, chính trong
lúc nó rèn đúc hạnh phúc của mọi người, nó rèn đúc hạnh phúc của chính nó”[13]
. Vì thế, hạnh phúc là sự chia sẻ, giúp đỡ mọi người, thấu hiểu, cảm thông gắn
bó giữa người với người vì những điều tốt đẹp.
Trong
xã hội có giai cấp đối kháng, hạnh phúc mang tính giai cấp. Hạnh phúc của giai
cấp này có thể là nỗi bất hạnh của giai cấp khác. Nhà tư bản tìm thấy hạnh phúc
ở sự giành giật lợi ích cho bản thân mình, cho gia đình mình, song người lao
động tìm thấy hạnh phúc trong sự đấu tranh cho sự phồn vinh chung của mọi
người, lo cho hạnh phúc chung của tập thể trong đó có hạnh phúc cá nhân mình.
Cần phải nhận thức rằng, hạnh phúc mà giai cấp thống trị quan niệm thì trên mỗi
bước đi của nó luôn vấp phải những lợi ích của người khác, thậm chí nó được xây
trên sự bất hạnh khổ đau của giai cấp khác. Nhưng trong chế độ xã hội chủ
nghĩa, hạnh phúc của mỗi người góp phần vào hạnh phúc chung của xã hội.
Hạnh
phúc và bất hạnh có quan hệ biện chứng. Muốn có hạnh phúc, con người nhiều khi
phải chấp nhận gian khổ, mất mát, kể cả sự hy sinh, đôi khi sự khổ đau lại làm
sâu sắc thêm giá trị của hạnh phúc. Niềm vui, niềm hạnh phúc mà con người nhận
được phụ thuộc rất nhiều vào những trăn trở và khổ đau mà họ phải trải qua và
vượt qua bằng ý chí, nỗ lực lớn lao của họ. Tuy nhiên, không nên quan niệm rằng
càng nhiều khổ đau thì càng có nhiều hạnh phúc. Ngược lại đạo đức học mácxít
luôn chủ trương giảm bớt và loại bỏ đau khổ ra khỏi đời sống con người. Như
V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh, sự bất hạnh không phải là cơ sở của lòng dũng cảm
mà nó là cái đáng ghê tởm cần phải và có thể gạt bỏ kiên quyết ra khỏi đời sống
của con người.
Hạnh
phúc là một phạm trù có tính chất tương đối, chúng biến đổi cùng với sự vận
động của tồn tại xã hội. Tính tương đối của phạm trù hạnh phúc thể hiện ở chỗ
cảm nhận ở người này là hạnh phúc đôi khi lại không đúng với người khác, cái
vui sướng của ngày hôm nay đôi khi lại là những đau khổ của ngày mai. Mỗi thời
đại khác nhau, những lứa tuổi, những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, quan niệm về
hạnh phúc của con người cũng không giống nhau.
Quán
triệt nội dung phạm trù hạnh phúc trong việc học tập và rèn luyện, người công
an nhân dân phải ý thức hạnh phúc của mình ở sự bình yên, hạnh phúc của nhân
dân. Lý tưởng đạo đức đó đòi hỏi người chiến sĩ công an luôn luôn đặt lợi ích
của nhân dân lên trên hết, “thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui chơi”, phải
gần gũi, toàn tâm toàn ý vì nhân dân phục vụ. Hạnh phúc của nghề công an là đấu
tranh bảo đảm vững chắc nền an ninh- trật tự của đất nước; là sự cống hiến, là
đem lại những điều tốt đẹp cho nhân dân, đấu tranh cho cái thiện chiến thắng
cái ác, hạnh phúc của nhân dân luôn trở thành lý tưởng hạnh phúc tối cao của
người công an nhân dân. Người chiến sĩ công an sẽ được dân quý, dân yêu khi gắn
bó với nhân dân, chăm lo bảo vệ nhân dân, đấu tranh kiên quyết với bọn tội
phạm, không khoan nhượng với các thế lực gây bất hạnh cho nhân dân. Bình yên
cho nhân dân trở thành lý tưởng đạo đức người công an xã hội chủ nghĩa.
3. Phạm trù nghĩa vụ đạo đức
a. Những quan niệm
ngoài Mácxít về nghĩa vụ đạo đức
Một số quan niệm của tôn giáo cho rằng, con
người phải có nghĩa vụ trước đấng thần linh, phải hy sinh mọi quyền lợi và nhu
cầu của mình trong cuộc đời, tin và phục tùng cái tất yếu định mệnh. Đạo đức
Nho giáo có quan điểm cho rằng, sở dĩ con người có ý thức nghĩa vụ đạo đức vì
bẩm sinh con người đã có mầm của nhân nghĩa, con người biết tự xấu hổ với lương
tâm của mình. Mạnh Tử từng nói: “Con người ta ai cũng có tính hổ thẹn và chính
bản tính hổ thẹn là nguồn gốc sinh ra nghĩa vụ”.
Một
số nhà triết học cổ đại Hy Lạp giải thích nguồn gốc của nghĩa vụ đạo đức là do
bẩm sinh có sẵn ở con người hoặc do kế thừa tập tính của tổ tiên có tính chất
bản năng. Đêmôcơrít cho rằng: “ý thức nghĩa vụ là động cơ sâu kín bên trong của
con người, là động lực thúc đẩy con người tự giác hành động”. Êpiquya cho rằng,
nghĩa vụ đạo đức là sự phục tùng số mệnh.
Các
nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII- XVIII, cho rằng nghĩa vụ đạo đức không tách khỏi
hạnh phúc và lợi ích cá nhân. Đó là tính tất yếu đối với tất cả mọi người và
mọi người đều phải có trách nhiệm thực hiện. Chẳng hạn, cha mẹ phải có nghĩa vụ
nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái, cũng như con cái phải có hiếu với cha mẹ.
Nhà
triết học duy tâm người Đức Cantơ khẳng định nghĩa vụ đạo đức là mệnh lệnh
tuyệt đối, là chân lý tất yếu mang tính loài, nó vừa cao cả, vừa vĩ đại, nằm
trong chiều sâu nhân bản của loài người, nó độc lập với lợi ích và mong muốn
chủ quan của con người. Ông phủ định nguồn gốc xã hội của nghĩa vụ đạo đức.
Một
số khuynh hướng của triết học tư sản hiện đại, nhất là chủ nghĩa hiện sinh phủ
nhận ý nghĩa của nghĩa vụ đạo đức, coi đó là những ràng buộc vô bổ trong cuộc
sống của con người. Họ cho rằng, giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện
trong sự lựa chọn tự do của cá nhân. Tự do cá nhân không thể bị gò ép bởi một
chuẩn mực đạo đức nào của xã hội. Họ tung hô khẩu hiệu về "cái tôi" vĩ đại.
b. Quan niệm của đạo
đức học Mác- Lênin về nghĩa vụ đạo đức
Theo
cách hiểu thông thường, nghĩa vụ là thể hiện trách nhiệm của cá nhân trước người khác, trước xã hội. Có
nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý.
Nghĩa vụ đạo đức là sự thể hiện trách nhiệm
đạo đức của con người trước lợi ích chung (cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân
loại) và lợi ích của người khác, là ý thức về cái cần phải làm và mong muốn
được làm vì những lợi ích đó.
Nghĩa
vụ pháp lý như: lao động, bảo vệ Tổ quốc, chấp hành các quy định của pháp
luật... Về mặt hành vi, thể hiện nghĩa vụ pháp lí chưa mang tính tự nguyện tự
giác, chưa xuất phát từ ý thức đạo đức của con người, mà có thể chịu các tác
động từ bên ngoài, hoặc do những chế tài của pháp luật. Nói cách khác, nghĩa vụ
pháp lí chưa có sự thống nhất cao độ giữa lí trí của cá nhân và lí trí của toàn
xã hội, nó chưa hoàn toàn do cái tất yếu bên trong, mà chịu sự tác động của cái
bên ngoài, nó chưa biến thành nhu cầu đạo đức của chủ thể.
Nghĩa vụ đạo đức là sự phù hợp giữa lí trí,
tình cảm cá nhân với những nhu cầu đạo đức của xã hội. Nó có sự thống nhất cao
độ giữa động cơ và hành động, thể hiện ý thức trách nhiệm của cá nhân vì lợi
ích của người khác và lợi ích chung của xã hội, mang tính tự nguyện, tự giác
theo tiếng gọi bên trong mà không bị ép buộc, lôi kéo bởi các tác nhân bên
ngoài. Nói cách khác, nghĩa vụ đạo đức hàm chứa các dấu hiệu:
Một
là, những hành vi mà chủ thể hiểu rõ việc mình làm và mong muốn được làm với
tất cả tấm lòng, tình cảm chân thành, không quản ngại gian khổ hy sinh (tự
giác, tự nguyện).
Hai
là, những hành vi đó phải đặt trên cơ sở vì cái thiện, cái tốt đẹp (mang bản
chất thiện).
Ba
là, những hành vi đó phải được diễn ra trong điều kiện chủ thể được hoàn toàn
tự do lựa chọn, không phụ thuộc vào hoàn cảnh ép buộc bên ngoài và động cơ vụ
lợi bên trong (tự do, trong sáng, vô tư).
Nghĩa
vụ đạo đức chiếm vị trí quan trọng trong đời sống đạo đức xã hội. ý thức nghĩa
vụ đạo đức là đặc trưng nói lên bản chất nhân văn của xã hội. Việc thực hiện
nghĩa vụ đạo đức nói lên tình trạng tiến bộ hay suy thoái của đời sống đạo đức
của một xã hội nhất định. Nhờ có nghĩa vụ đạo đức mà con người có quan hệ tương
trợ, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, lao động và chiến đấu. Ngay từ
khi loài người mới hình thành, ý thức nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện dưới hình
thức thuần phác, tự nhiên, người nguyên thuỷ đã biết dựa vào nhau, hợp tác,
tương trợ trong quá trình đấu tranh chống thiên tai, thú dữ, cùng làm, cùng
hưởng. Hệ thống nghĩa vụ đạo đức ngày càng phong phú và phát triển cùng với sự
phát triển của lịch sử và văn hoá, con người ngày càng ý thức được sự cần thiết
phải tương trợ hợp tác trên tinh thần bình đẳng và tự nguyện, nó trở thành nhu
cầu đạo đức của con người, thành tình cảm nghĩa vụ. Tình cảm nghĩa vụ là một
trong những tiêu chuẩn giá trị cao nhất của ý thức đạo đức.
Nghĩa vụ đạo đức giúp
cho con người gạt bỏ những ham muốn ích kỉ, dục vọng cá nhân. Có nghĩa vụ đạo
đức con người luôn ý thức sâu sắc bổn phận trách nhiệm của mình đối với người
khác và đối với xã hội. Nhà đạo đức học nổi tiếng Bandzeladze viết: “Đạo đức
của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và
xã hội... Nơi nào không có hành động tự nguyện tự giác của con người thì nơi ấy
không thể có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã hội. Đặc trưng của đời
sống con người và của bản thân tính người hoặc nhân phẩm là đạo đức và nội dung
chính của đạo đức là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của người khác
và của toàn thể xã hội."[14]
Thực hiện nghĩa vụ đạo đức là phương thức cho con người tự hoàn thiện chính
mình. Hêghen đã có lý khi khẳng định rằng hành vi nghĩa vụ đạo đức chính là
“đánh mất cái tôi” (hy sinh) của mình vì
“một cái tôi khác”, nhưng trong sự đánh mất đó, lần đầu tiên ta tìm thấy
bản thân mình. Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm rằng, nghĩa vụ là thực hiện trách
nhiệm của mình vì lợi ích người khác và lợi ích chung của xã hội.
ý
thức nghĩa vụ đạo đức gắn bó chặt chẽ với con người trong quan niệm về lẽ sống,
lý tưởng, hạnh phúc. Nó là kết quả con người nhận thức đúng đắn sự thống nhất
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; giữa hạnh phúc riêng và hạnh phúc
chung. Một con người được giáo dục tốt sẽ có ý thức nghĩa vụ đạo đức cao và
ngược lại. Sẽ không thể có được ý thức nghĩa vụ đạo đức ở những con người thiếu
nhân cách, thiếu trách nhiệm của bản thân mình và với người khác. Mất đi ý thức
nghĩa vụ đạo đức cũng chính là đánh mất ý thức về chính bản thân mình, mất đi ý
nghĩa làm người của mình.
Theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng nguồn gốc nghĩa vụ bắt nguồn từ các
nhu cầu và nhiệm vụ mà xã hội đặt ra cho các cá nhân trong những giai đoạn lịch
sử nhất định. Song những yêu cầu đạo đức đó chỉ trở thành nghĩa vụ đạo đức khi
chủ thể ý thức đầy đủ, rõ ràng những đòi hỏi khách quan của đạo đức xã hội và
tự nguyện tự giác thực hiện với một niềm tin đạo đức và tình cảm đạo đức mãnh
liệt. Chính vì vậy, thực hiện nghĩa vụ đạo đức sẽ đem lại con con người những
cảm giác khoan khoái, một lương tâm trong sạch.
Những chuẩn mực đạo đức làm thành nghĩa vụ
đạo đức của con người có được là một quá trình hình thành, phát triển qua hàng
ngàn năm, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ xã hội này sang xã hội khác
trong suốt quá trình lao động phát triển xã hội loài người. Thông qua hoạt động
lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn xã hội mà hình thành các hệ chuẩn mực
nghĩa vụ đạo đức. Để duy trì sự tồn tại của xã hội và kết hợp được hài hoà các
lợi ích, thì bao trùm lên các quan hệ xã hội trên là quan hệ đạo đức. ý thức
nghĩa vụ đạo đức là sự thể hiện tình cảm thiêng liêng, cao cả, một nghĩa vụ
tinh thần sâu sắc cấu thành nội dung cơ bản của bổn phận (đạo làm người). Nó là
nền tảng tinh thần của đạo: trung, hiếu, nhân, nghĩa. Chính nghĩa vụ đạo đức đã
hun đúc nên lòng yêu nước, trung thành với Tổ quốc, tình thương yêu kính trọng
cha mẹ, thuỷ chung trong quan hệ vợ chồng...
Giáo dục ý thức
nghĩa vụ đạo đức có tác dụng quan trọng đối với quá trình hình thành nhân cách
cá nhân. Để có được ý thức nghĩa vụ đạo đức cho cá nhân đòi hỏi phải giáo dục
thường xuyên, lâu dài, mặt khác chủ thể đạo đức phải không ngừng tự giáo dục
rèn luyện mình. Quá trình giáo dục phải từ nhỏ đến lớn, kết hợp môi trường gia
đình, nhà trường và xã hội; phải kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn. Giáo dục
lý thuyết để hình thành lý tưởng, tri thức hiểu biết về các chuẩn mực đạo lí,
hình thành ý thức đạo đức cá nhân. Song chủ thể đạo đức phải có tình cảm đạo
đức thôi thúc họ thực hiện hành vi đạo đức.
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể đi tới thắng lợi cuối cùng khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người tự nguyện, tự giác lao động, làm việc
với tinh thần nghĩa vụ đạo đức vì dân, vì nước “ cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của dân” như Nghị quyết X của Đảng đã nhấn mạnh. Đối
với người chiến sĩ công an cùng một lúc phải làm tốt nghĩa vụ nghề nghiệp và
nghĩa vụ công dân. Nghĩa vụ nghề nghiệp của người chiến sĩ công an là bảo vệ an
ninh cho Tổ quốc, bình yên cho nhân dân, thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui
chơi, vượt mọi khó khăn gian khổ để phục vụ nhân dân. Hạnh phúc của người công
an là được góp phần làm cho nhân dân được sống cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Người chiến sĩ công an phải làm gương trong việc thực hiện nghĩa vụ công dân,
đó là nghĩa vụ của người làm chủ nước nhà, phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật
của Nhà nước; tuân thủ kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; bảo vệ tài sản
công dân; bảo vệ Tổ quốc... Trong học tập và rèn luyện đạo đức, người công an
nhân dân đòi hỏi phải thường xuyên trau dồi phẩm chất đạo đức, coi đó là ý thức
nghĩa vụ với chính mình, luôn là tấm gương về đạo đức cách mạng. Nghĩa vụ đạo
đức nghề nghiệp đòi hỏi người chiến sĩ công an thực hiện nghiêm Năm lời thề,
Sáu điều Bác Hồ dạy, quán triệt và thực hiện tốt cuộc vận động “Công an nhân
dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đây là những yêu cầu và
giá trị đạo đức nghề nghiệp cao quý nhất, để phân biệt với các chuẩn mực đạo
đức của các lực lượng xã hội - nghề
nghiệp khác.
4. Phạm trù
lương tâm
a. Những quan niệm ngoài Mácxít về lương tâm
Người ta cho rằng ngay từ thời kỳ tiền sử, khi còn trong
tình trạng mông muội, con người đã biết đến các từ: “xấu hổ”, “hổ thẹn”. Đây là
những từ chỉ cảm xúc dằn vặt, tự trách mình. Các nhà nghiên cứu cho rằng, phạm
trù lương tâm cũng là một trong những phạm trù xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
các tư tưởng đạo đức học. Tuy nhiên, quan niệm về nguồn gốc lương tâm thì có
nhiều ý kiến khác nhau.
Platôn-
nhà triết học duy tâm cổ đại Hy Lạp cho rằng, lương tâm chính là sự mách bảo
của Thượng đế, là ý chí của Thượng đế nằm ngay trong bản chất tinh thần của con
người. Đêmôcơrít coi lương tâm chính là sự tự hổ thẹn, tức là hổ thẹn với bản
thân mình. Ông cho rằng sự hổ thẹn và nhất là tự hổ thẹn, giúp cho con người
tránh được những suy nghĩ, những việc làm sai trái, thiếu đạo đức, khiến cho
đời sống xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Do đó, cần và phải dạy cho con người biết
hổ thẹn, nhất là hổ thẹn trước bản thân mình.
Nhà
triết học cổ điển Đức: Cantơ trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” đã đưa
ra nguyên tắc “mệnh lệnh tuyệt đối” coi đó là
nguyên tắc phổ quát, quy luật đạo đức chung đòi hỏi mọi người, mọi công
dân có nghĩa vụ thực hiện như là “hành động của cái tự nó”. Ông coi lương tâm
của con người là tiếng nói của thế giới siêu nghiệm, tiên nghiệm, có trong họ
từ lúc sinh ra, như là của Chúa trời có trong ta, phán xử chúng ta. Lương tâm
là “sự thao thức của tinh thần”, nó không phụ thuộc vào hoàn cảnh, không phải
là cái mà con người có thể tìm kiếm được. Hêghen, nhà triết học duy tâm khách
quan cho rằng, lương tâm là sự ý thức được điều thiện và lẽ công bằng chân
chính. Tình cảm lương tâm là tình cảm trách nhiệm trước điều thiện và lẽ công
bằng. Mặc dù có những nội dung tư tưởng hợp lí và sâu sắc, song theo ông “lương
tâm chính là sản phẩm của tinh thần khách quan”, của “ý niệm tuyệt đối”. Tính
khách quan đó của lương tâm chỉ là sản phẩm của “tinh thần khách quan” thông
qua sự “tự tha hoá” vào trong ý thức của con người.
Các
đại biểu như Đácuyn, Xpenxơ, Cauxki lại quy lương tâm vào bản năng con người.
Theo họ, lương tâm là một cái gì đó có sẵn trong con người, bẩm sinh, vốn có,
vĩnh viễn không thay đổi, thuần tuý sinh học, không phụ thuộc gì vào các điều
kiện kinh tế - xã hội.
b. Quan niệm của đạo
đức học Mác- Lênin về lương tâm
Lương
tâm là cảm giác hay ý thức trách nhiệm đạo đức của con người đối với hành vi
của mình trong mối quan hệ với người khác, với xã hội (cộng đồng, dân tộc, giai
cấp nhân loại); ý thức trách nhiệm đối với số phận của người khác và xã hội.
Lương tâm đồng thời là sự tự phán xử về các hoạt động và hành vi của mình.
Qua
khái niệm này, ta thấy lương tâm trước hết là một hiện tượng tình cảm đạo đức
của con người, sau đó là ý thức trách nhiệm và thái độ của chủ thể trên các
khía cạnh:
+ ý
thức trách nhiệm đạo đức về hành vi của bản thân mình trong các mối quan hệ ứng
xử xã hội.
+ý
thức trách nhiệm đạo đức của bản thân mình đối với đồng loại, (thể hiện thái độ
bình thản hay day dứt, cảm thông hay bất bình trước các hiện tượng đạo đức và
vô đạo đức).
+ ý
thức trách nhiệm đạo đức trong phán xử với chính mình - toà án lương tâm.
Do
tính chất và vị trí đặc biệt của nó, lương tâm được xem là hạt nhân của đời
sống đạo đức, làm nên bản chất đạo đức. Nói đến đạo đức là đề cập đến lương
tâm. Lương tâm là dấu hiệu và thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá
nhân. Dưới hình thức tình cảm nội tâm, lương tâm tồn tại minh chứng cho sự hiện
diện của đời sống đạo đức cá nhân. Lương tâm là thế giới nội tâm sâu sắc, nó
không phải là cảm xúc hời hợt, nông cạn mà là một quá trình nhận thức sâu sắc
của chủ thể đạo đức đối với những chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội, nhất là
quan niệm của chủ thể về cái chân, cái thiện và cái mĩ.
Lương
tâm là tình cảm hướng thiện. Nó là thế giới bên trong ẩn giấu sâu kín để điều
chỉnh ý thức, hành vi con người. Do vậy nếu con người biết giữ gìn và thức tỉnh
lương tâm sẽ điều chỉnh hành vi của mình không làm điều ác cho người khác và
cho xã hội. Khi con người đánh mất lương tâm, tức là đã tự đánh mất mình, trở
thành kẻ vô lương tâm, lúc đó hành vi của con người có thể trở thành hiểm hoạ
cho xã hội.
Nhờ
có lương tâm mà những giá trị đạo đức của con người mới được bảo tồn và phát
triển, như : lòng nhân ái, nhân đạo, tính trung thực thật thà, tình đồng chí
đồng đội, tình đoàn kết, chủ nghĩa yêu nước... Nhờ có lương tâm mà con người
mới vượt qua được khó khăn trong cuộc sống, hướng tới cái thiện, giữ gìn được
phẩm giá danh dự. Nhờ có lương tâm làm cho con người hướng tới sự công bằng và
đạo lý, thực hiện nghĩa vụ đạo đức một
cách tự nguyện tự giác. Nhờ có lương tâm mách bảo mà con người rời xa và lên án
cái ác, cái vị kỷ để giữ được đạo lý, được sự công bằng, thực hiện được nghĩa
vụ đạo đức.
Lương
tâm biểu hiện ở việc tự đánh giá những hành động của mình nên bản thân nó là
một hiện tượng tình cảm. Nhưng vì lương tâm làm chức năng tự kiểm tra nên nó
còn là một hiện tượng trí tuệ. Để làm được chức năng tự kiểm tra, tự đánh giá,
xem xét hành vi của mình là đúng đắn hay sai trái, có đạo hay vô đạo, con người
cần đến sự tham gia của yếu tố lương tâm. Nhờ có trí tuệ soi sáng cho lương tâm
mà con người biết hướng thiện, tự thức tỉnh, có lòng tự trọng, tránh làm điều
xấu xa, mong muốn làm những điều tốt đẹp.
Về mặt chủ quan: Lương tâm được thể hiện trước cá
nhân như là tiếng nói sâu thẳm của đáy lòng, tính tự chủ, tự giác trong việc
lựa chọn hành vi đạo đức, nó biểu hiện ra bên ngoài là sự thanh thản, cảm giác
trong sạch hoặc sự cắn dứt, buồn phiền, ngượng ngùng và cao hơn là sự hổ thẹn.
Về mặt khách quan: Nội dung của
lương tâm mang tính khách quan. Nó được hình thành và là kết quả phản ánh các
chuẩn mực đạo đức của đời sống xã hội vào ý thức của con người. Nội dung tạo
nên cảm giác lương tâm luôn thay đổi cùng với sự phát triển của lịch sử và sự
tiến bộ của đạo đức.
Lương
tâm có được ở những con người có lòng tự trọng, biết tự ý thức về bản thân
mình, ý thức nghĩa vụ đạo đức. Không có sự nhận thức sâu sắc những chuẩn mực
đạo đức cùng ý thức về nghĩa vụ đạo đức của bản thân mình đối với người khác và
đối với xã hội thì lương tâm không thể có được. Tất nhiên, để hình thành lương
tâm, con người cần hiểu đúng đắn thế nào là hạnh phúc, thế nào là khổ đau, thế
nào là thiện và thế nào là ác. Cơ sở và tình cảm của lương tâm còn được bắt
nguồn từ lẽ sống công bằng, từ ý thức về những giá trị đạo đức cao đẹp trong
đời sống xã hội thông qua các hoạt động lao động sáng tạo, cống hiến hưởng thụ.
Nếu
ý thức nghĩa vụ đạo đức là kết quả nhận thức của chủ thể đạo đức về những yêu
cầu đạo đức xã hội, thì lương tâm là ý thức, là tình cảm thôi thúc từ bên trong
của chủ thể trước nghĩa vụ đạo đức của mình. Nghĩa vụ đạo đức và lương tâm có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ đạo đức là ý thức trách nhiệm trước xã
hội, trước người khác, còn lương tâm là ý thức trách nhiệm trước bản thân mình.
Sự
hình thành, hoàn thiện lương tâm là một quá trình phát triển lâu dài, gắn liền
với những cấp độ khác nhau của sự phát triển ý thức nghĩa vụ đạo đức:
+
Lúc đầu con người nhận thức cái cần phải làm, vì nếu không làm sợ bị trừng
phạt. ở cấp độ này, hành vi con người còn lệ thuộc vào cái tất yếu bên ngoài,
nó chưa phải là sự thúc giục của lương tâm.
+ Nhận thức cái cần phải làm, vì nếu không làm
thì sợ xấu hổ với người khác. ở cấp độ này ý thức nghĩa vụ đạo đức đã xuất
hiện, đã tiềm ẩn yếu tố lương tâm. Nghĩa là con người đã có ý thức về lòng tự
trọng, nhưng chưa đạt đến mức độ hoàn toàn tự giác và còn ít nhiều phụ thuộc
vào tác nhân bên ngoài.
+
Nhận thức cái cần phải làm, vì nếu không làm thì sợ xấu hổ với chính bản thân
mình. Lúc này suy nghĩ và hành vi của con người do lương tâm chi phối.
Lương tâm là toà án đạo đức của chính bản thân
mình chống lại mọi sự vị kỉ và hành vi vô đạo đức. Con người mà không có sự
điều chỉnh của lương tâm thì sẽ trở thành ác thú. Tuy nhiên cũng cần chú ý,
không nên coi lương tâm là thước đo duy nhất của mọi giá trị hành vi, lương tâm
có thể có những sai lầm. V.ILênin đã từng đòi hỏi người cách mạng phải biết kết
hợp sự tỉnh táo lạnh lùng của lí trí với lòng say mê cuồng nhiệt của người cách
mạng.
Lương
tâm được biểu hiện ở hai trạng thái
khẳng định và phủ định.
+ Trạng thái khẳng định, thể hiện sự thư
thái, sự thanh thản yên tĩnh trong tâm hồn. Trạng thái này giúp cho con người
tin tưởng vào bản thân mình, hình thành niềm tin bên trong, thôi thúc con người
vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp, góp phần vào sự tiến bộ xã hội. Nhưng không
nên đồng nhất sự thư thái của lương tâm với sự yên tĩnh của tinh thần mang tính
thụ động, khép kín, quay lưng với thực tại. Ngược lại, sự thư thái của lương
tâm thể hiện tính chủ động tích cực của con người suy nghĩ và hành động vì hạnh phúc của người khác và xã hội.
+ Trạng thái phủ định là những cảm
giác đau khổ, day dứt, trăn trở, ân hận, sám hối... trong tâm hồn. Trạng thái
này có ở những người có lòng tự trọng, có nhân cách đạo đức, góp phần uốn nắn
những hành vi sai trái. Nói chung, người có lương tâm là người biết suy nghĩ về
những việc mình sắp làm và hiểu rất rõ việc mình làm. Song cuộc sống con người
vô cùng phức tạp, khó có thể tránh khỏi những lỗi lầm ở những mức độ nhất định.
Người có lương tâm là người biết xấu hổ với chính bản thân mình, nhưng người
biết xấu hổ chưa chắc đã là người có lương tâm nếu đó là sự xấu hổ trước người
khác mà không phải với chính mình. Cảm giác xấu hổ như C.Mác từng nói là một
thứ tình cảm tức giận, nhưng ở đây sự tức giận hướng vào bên trong.
Trong
đời sống xã hội, sự biết xấu hổ có vai trò rất tích cực, nó có ý nghĩa điều
chỉnh hành vi của cá nhân cho phù hợp với đời sống cộng đồng. Người biết xấu hổ
hay bị lương tâm cắn rứt trước những việc làm sai trái của mình, nên nó có tác
dụng uốn nắn và sửa chữa khuyết điểm giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Sự mách bảo của lương tâm làm cho các chủ thể đạo đức có thể tự phán xử, tự
đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình trong quan hệ với người khác và với xã
hội. Vì vậy để hình thành lương tâm cần đẩy mạnh giáo dục ý thức nghĩa vụ đạo
đức, làm cho ý thức nghĩa vụ đạo đức trở thành thiêng liêng, thành ý thức
thường trực, thành niềm tin của con người.
Trong
giai đoạn hiện nay, một số người lợi dụng mặt trái cơ chế thị trường, lợi dụng
những sơ hở trong quản lí kinh tế và xã hội, vì lợi ích cá nhân, trước sự cám
dỗ vật chất tầm thường, họ đã cố tình đánh mất giá trị lương tâm. Tệ tham
nhũng, làm hàng giả, buôn lậu, lừa đảo, tình hình tệ nạn và tội phạm gia tăng
là kết quả của tình trạng lương tâm bị
tha hoá, đạo đức xã hội xuống cấp, thuần phong mỹ tục bị xâm thực. Do đó, nhiệm
vụ tăng cường công tác giáo dục đạo đức, giáo dục lương tâm, kêu gọi con người
hướng đến các giá trị thiện tâm, thiện chí, đề cao lương tâm trong việc điều
chỉnh và đánh giá hành vi nhằm lành mạnh hoá xã hội.
Đối
với đạo đức người công an nhân dân, mục tiêu cao nhất là đấu tranh loại bỏ cái
ác, loại trừ tội phạm, không để lọt tội phạm cũng như không bắt oan người ngay,
giải quyết công việc có lí có tình, đó là lương tâm nghề nghiệp. Lương tâm nghề
nghiệp yêu cầu người chiến sĩ công an phải quán triệt sự công bằng, khách quan,
vô tư, trung thực, làm đúng pháp luật vì là người đại diện cho pháp luật, luôn
đấu tranh vì lẽ phải và sự công bằng, cho nhân phẩm con người và các chuẩn mực
đạo lí, bảo đảm những giá trị chân, thiện, mĩ. Trong cuộc đấu tranh chống tội
phạm, đối với những người có hành vi trái với lương tâm, những kẻ phạm tội,
lương tâm nghề nghiệp đòi hỏi người chiến sĩ công an phải đấu tranh kiên quyết,
phê phán nghiêm khắc, trừng trị thích đáng kẻ phạm tội, bảo vệ những chuẩn mực
đạo đức và sự nghiêm minh của pháp luật, không bắt oan người ngay, không bỏ lọt
tội phạm. Lương tâm nghề nghiệp người công an nhân dân đòi hỏi phải thấm nhuần
bản chất nhân đạo xã hội chủ nghĩa, người đáng phải bắt thì kiên quyết bắt,
người bắt cũng được mà không bắt cũng được thì kiên quyết không bắt, quán triệt
nguyên tắc lấy phòng ngừa là chính trong đấu tranh chống tội phạm.
Tính
nhân đạo nghề nghiệp người chiến sĩ công an là làm thế nào để những con người
lầm đường, lạc lối, vi phạm pháp luật biết ăn năn hối cải, phục hồi nghĩa vụ
đạo đức, đánh thức lương tâm trong sạch đưa họ trở lại con đường lương thiện,
sống có trách nhiệm nghĩa vụ đạo đức với cộng đồng và với bản thân họ.
5. Phạm trù thiện
và ác
a. Những quan niệm
ngoài Macxit về thiện và ác
Trong
lịch sử đạo đức học, cái thiện được nhiều nhà tư tưởng quan tâm nghiên cứu. Sở
dĩ như vậy bởi đạo đức là khoa học bàn đến cái thiện. Song quan niệm về cái
thiện và cái ác lại có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Khổng
Tử đã xây dựng thuyết nhân- lễ- chính danh, trong đó phạm trù nhân là trung tâm
của đạo đức. Nhân là thiện, là yêu thương con người. Mọi đức tính của con người
có giáo dục quy tụ ở chữ nhân, từ nhân mà sinh ra trung hiếu, cung kính, khoan
hoà, cần mẫn, chính đáng, thật thà, khiêm tốn, biết yêu và biết ghét. Lão Tử
chủ trương thuyết “ vô vi” là thiện, hãy để con người thuận theo lẽ tự nhiên,
đến Trang Tử thì thiện ác, tốt xấu, phải trái, sang hèn, sống chết đều là những
thể như nhau hãy làm ngơ cho phải trái tự nhiên phát triển, hãy “vô vi, vô sự”.
Mạnh Tử ( 3371- 289) khẳng định bản tính con người là thiện. Tính thiện bắt
nguồn từ tâm, nhờ tâm mà phân biệt được phải trái, thiện ác, biết được nhân,
nghĩa, lễ, trí. Tâm có “ lương năng” nên không học mà vẫn có lương tri, không
cần suy nghĩ mà vẫn biết. Ông khuyên mọi người hãy tự sửa mình, giữ tâm, tồn
tâm dưỡng tính, mình có chính thì mới giáo dục được người khác. Triết học phật
giáo có đề cập đến phạm trù thiện ác dưới lập trường duy tâm thần bí, khuyên
con người làm điều thiện, tự giác tu luyện sẽ chuyển ác thành thiện, sửa tà
thành chính để được giải thoát khỏi luân hồi nghiệp chướng.
Triết học Phương
tây cổ đại Platon cho rằng, con người phải biết sống thiện. Thượng đế sáng tạo
ra cái thiện và đem lại cho con người điều thiện. Cái thiện là ý muốn của
Thượng đế, còn xung quanh chúng ta và trong cõi đời của con người chỉ toàn là
hiện thân của cái ác. Vì thế, để cứu vớt loài người Chúa ban phát lòng từ bi,
mang cái thiện đến để cứu rỗi chúng sinh, con người phải biết vâng lệnh Thượng
đế.
Triết học Cổ điển Đức: Cantơ quy cái thiện vào
ý chí, ông cho rằng: “Không ở đâu trong thế giới này lại có thể hình dung được
một cái gì khác hơn là cái thiện vô hạn và cái thiện vô hạn là cái thiện của ý
chí”. Ông giải thích: “Cái thiện của ý chí là cái thiện mà Chúa ban cho con
người”. Hêghen đưa ra luận điểm, “con người về bản tính vốn là bất bình đẳng”
và chứng minh về sự bất công , mọi tệ nạn trong xã hội là một tất yếu thúc đẩy
xã hội phát triển, chính sự không ngừng nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn mà tạo
nên động lực cho sự tiến bộ lịch sử. Ông coi thiện, ác đều là sự tha hoá của
tinh thần tuyệt đối. Theo ông thiện ác có quan hệ biện chứng với nhau, tạo sinh
ra nhau. Song ông lại đề cao cái ác, cho đó là hình thức thể hiện những lực lượng
phát triển của lịch sử, và bản thân nó có cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực. Mặc
dù tư tưởng của Hêghen có nhiều giá trị về mặt khoa học, song về mặt chính trị,
ông đã mở đường cho các lực lượng phản động tuyên truyền và biện hộ cho những
cuộc chiến tranh cướp bóc, nô dịch quần chúng lao động.
b. Quan niệm của đạo
đức học Mác- Lênin về thiện, ác
Cái
thiện theo nghĩa tổng quát chính là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con
người. Là những hành vi mà lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu của sự tiến bộ
xã hội.
Cái thiện là lợi ích của con người phù hợp với
sự tiến bộ xã hội. Thiện cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người,
làm cho con người ngày càng sung sướng hơn, tự do hơn, hạnh phúc hơn; cái ác là
tất cả những gì gây trở ngại và có hại cho con người và cho xã hội.
Như
thế cái thiện vừa hàm chứa những lí tưởng cao quý nhất của con người vừa được
thể hiện ra như những giá trị cụ thể, tốt đẹp thông qua hoạt động xã hội của
con người trong những điều kiện lịch sử nhất định. Cái thiện vừa là những giá
trị hiện thực vừa hàm chứa những lí tưởng đạo đức cao quý. Nó là biểu tượng tập
trung nhất, cụ thể nhất và cao nhất của đời sống đạo đức xã hội. Do ý nghĩa lớn
lao của cái thiện, nên nhiều học giả đã cho rằng, đạo đức là khoa học bàn về
cái thiện.
Phạm
trù thiện ác được sử dụng khi đánh giá về hành vi đạo đức, nhân cách. Dựa vào
thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ, đạo đức học mácxít cho rằng
quan niệm thiện và ác của con người không phải là sản phẩm của sự trừu tượng
thuần tuý, mà là một sản phẩm lịch sử. Vì thế nội dung của nó không phải là một
cái gì vĩnh viễn không thay đổi. Ngược lại, ở mỗi thời đại hình thành nên những
quan niệm thiện, ác khác nhau tương ứng với xã hội trong thời kỳ đó. Ph.ăngghen
đã chỉ ra rằng: tự giác hay không tự giác, rút cuộc người ta đều lấy những quan
niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tế đã trở thành cơ sở cho địa vị
giai cấp của mình, tức là từ những mối quan hệ kinh tế trong đó người ta tiến
hành sản xuất và trao đổi. Như vậy, không có một quan niệm thiện ác cụ thể nào
có thể đúng cho nhiều thời đại khác nhau. Thậm chí, trong một xã hội có đối
kháng giai cấp thì những quan niệm thiện ác cũng khác nhau, đối lập nhau.
Tuy
nhiên, giữa các thời đại lịch sử khác nhau vẫn có những điểm tương đồng về cái
thiện. Trong một quan niệm cụ thể về cái thiện bao giờ cũng hàm chứa những lí
tưởng đạo đức của con người về lợi ích, về sự yêu thương, kính trọng đối với
con người. Cái thiện phổ quát là sự đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho quảng
đại quần chúng nhân dân, là biểu hiện lòng tốt, tính tích cực và tiến bộ về đạo
đức. Những lí tưởng cao quý đó lại được hiện ra thông qua những giá trị vật
chất, tinh thần cụ thể.
Cái
thiện chỉ có ở những con người có lẽ sống cao đẹp, có quan niệm đúng đắn về
hạnh phúc và luôn ý thức sâu sắc bổn phận nghĩa vụ đạo đức của mình đối với
người khác và đối với xã hội, có lí tưởng cống hiến đem lại những điều tốt đẹp
cho mọi người với tinh thần vô tư trong sáng. Hành vi của cái thiện bao giờ
cũng thể hiện tính tự giác, tự nguyện, trong sáng. Cái thiện chỉ nảy nở ở những
con người có lương tâm, có lòng nhân ái. Bởi để làm việc thiện con người phải
có thiện tâm, thiện chí. Tình cảm đạo đức chính là nguồn động lực thôi thúc con
người làm việc thiện, đấu tranh chống lại cái ác. Người làm điều thiện như
A.Xukhômlinxky viết: “ Phải là người có trái tim rộng mở trước niềm vui và nỗi
buồn của người khác”, là người phải biết lắng nghe, thấu hiểu và chia sẻ. Chỉ
thông cảm thôi chưa phải là thiện mà còn có nghĩa là giúp đỡ họ theo sức lực của
mình. Sự quan tâm lẫn nhau giữa những con người là cơ sở để hình thành niềm tin
vào những điều tốt đẹp, tin vào sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác.
Tiêu chí về cái thiện không ngừng được cụ thể
hoá và mở rộng cùng với sự phát triển của xã hội. Xã hội càng văn minh thì đòi
hỏi về cái thiện cho con người càng cao và cái ác càng bị thu hẹp. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có những điều kiện vật chất, khả năng khách quan cho việc thực
hiện cái thiện đầy đủ nhất. Cái
thiện cao nhất là giải phóng con người khỏi áp bức, đau khổ và bất hạnh trong
đời sống, là những phong trào nhân đạo, tấm lòng vàng, nối vòng tay lớn, những
nghĩa cử cao cả của sự giúp đỡ, cưu mang thể hiện tình thương giữa con người và
con người. Cái thiện còn là sự quý trọng nâng niu nhân phẩm và tôn vinh giá trị
con người, nó không đồng nghĩa với sự thương hại hay ban ơn.
Cái
thiện còn là sự thống nhất giữa mục đích và phương tiện, động cơ và kết quả.
Điều này giải thích rõ bản chất thật sự của cái thiện. Với hành vi đạo đức, vai
trò của động cơ có ý nghĩa quan trọng. Do đó, trong những hành vi cụ thể, quan
hệ giữa động cơ và kết quả được đánh giá như sau: Động cơ tốt, kết quả tốt, đó
là cái thiện; Động cơ xấu, kết quả xấu, đó là cái ác; Động cơ tốt, kết quả xấu,
không coi là ác; Động cơ xấu, kết quả có tốt, không coi là thiện.
Cần
chú ý, trong thực tế nhiều khi chủ thể đạo đức có động cơ, mục đích tốt, nhưng
kết quả lại xấu. Trong tình huống này cần có thái độ đúng mức và khách quan.
Ngược lại, nếu động cơ xấu, nhưng kết quả vẫn tốt thì không thể khẳng định đó
là thiện vì cái tốt này nằm ngoài dự kiến, mục đích của chủ thể hành động. Để
đánh giá đạo đức không thể chỉ căn cứ vào kết quả khách quan của hành động vì
trong kết quả của hành động nhiều khi còn có sự tham dự của yếu tố ngẫu nhiên mà
chủ thể không thể biết trước được. Đôi khi giữa kết quả của hành vi và động cơ
chẳng có mối liên quan nào cả. Nhà đạo đức học Liên Xô Bandzelaze viết: “Việc
tốt ngẫu nhiên không có giá trị đạo đức, cũng như việc xấu ngẫu nhiên ta không
thể coi là vô đạo đức. Do đó đánh giá đạo đức đích thực ít có liên quan đến
những kết quả của hành động, chủ yếu liên quan đến động cơ và dụng ý của con
người”[15]
Cái
thiện có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Đối với cá nhân,
cái thiện nâng cao phẩm giá con người, làm cho con người xác định được lẽ sống
đúng đắn và họ tự giác thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Đối với xã hội, cái thiện là
mảnh đất nuôi dưỡng những quan hệ lành mạnh, trong sáng. Để cái thiện đâm trồi,
nảy nở cần đấu tranh kiên quyết, triệt để với cái ác. Đấu tranh mạnh mẽ tiêu
diệt cái ác thực chất là làm điều thiện. Cái thiện dưới chủ nghĩa xã hội phù
hợp với sự tiến bộ xã hội, nó có vai trò tích cực trong cuộc sống con người. Nó
giúp cho con người suy nghĩ và hành động đem lại giá trị đích thực và tích cực
cho cuộc sống, đem lại niềm hạnh phúc và làm giảm nỗi khổ đau. Thực chất của
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những biểu hiện cao đẹp của
cái thiện vì ở đó con người hoàn toàn tự giác nhận thức và hành động trên cơ sở
hiểu biết sâu sắc những giá trị đạo đức và tự giác thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
Cái ác là cái gây
đau khổ và mất mát cả về vật chất và tinh thần đối với con người. Điều đó có
nghĩa là, tất cả những gì gây trở ngại,
có hại cho con người, chẳng hạn như chiến tranh huỷ diệt, xâm lược, thôn tính,
sự phân biệt chủng tộc, sắc tộc, khủng bố dưới mọi hình thức, diệt chủng, bóc
lột... đều là những biểu hiện của cái ác. Một hành vi ác biểu hiện như những
cái đối lập với lợi ích chân chính của con người, chẳng hạn như sự vô lương
tâm, thói ích kỉ, ăn bám, hành động tàn bạo dã man, sự nhẫn tâm, thờ ơ, vô
trách nhiệm trước nỗi đau của con người.
Giống như cái
thiện, cái ác cũng mang tính lịch sử và biến đổi qua các thời đại lịch sử.
Người nguyên thuỷ quan niệm cái ác là sự lười biếng, ăn bám, nên một số bộ tộc
có tục lệ giết người già khi không còn khả năng lao động. Trong xã hội có giai
cấp, cái ác mang tính giai cấp. Giai cấp bị trị quan niệm bóc lột là vô lương
tâm, tầng lớp sĩ phu cho rằng ác nhất là tội bất trung, giai cấp thống trị thì
biện minh rằng bóc lột là công bằng, hợp với nhân tính. Vì vậy, tiêu chí về cái
ác cũng thay đổi, thậm chí trái ngược nhau từ xã hội này sang xã hội khác, từ
thời đại này đến thời đại khác.
Giữa cái thiện và
cái ác có quan hệ biện chứng với nhau. Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác
làm thành động lực của lịch sử. Trong thực tiễn xã hội đôi khi cái ác còn được
thể hiện ra như là cái tất yếu cần vượt qua trên con đường sáng tạo ra cái
thiện. Trong thời đại ngày nay, cái ác chưa mất đi, thậm chí nó còn giương danh
thách thức lương tri nhân loại. Hãy còn đó chủ nghĩa cường quyền, áp bức, nô
dịch, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc… làm cho cuộc
đấu tranh vì một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng và nhân văn đang trở thành
đòi hỏi của lương tâm thời đại. Do đó, để ngăn chặn cái ác, cần xây dựng và
phát triển cái thiện ngày càng chiếm ưu thế trong mỗi quốc gia và trên phạm vi
toàn cầu.
Với
người chiến sĩ công an, cái thiện để phấn đấu là cuộc sống bình yên, hạnh phúc
của nhân dân, kiên quyết chống các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chống các loại tội phạm xâm phạm an ninh- trật tự xã hội. Cái
thiện của công tác công an không chỉ bó hẹp trong đấu tranh chống tội phạm mà
nó còn mở rộng ở chủ trương phòng chống tội phạm, lấy phòng ngừa, khoan hồng,
giáo dục, thuyết phục là chính, vừa cương quyết song cũng vừa khôn khéo, không
để lọt tội phạm, không bắt oan người vô tội, thiện còn là xử đúng người, đúng
tội.
Cái
thiện trong công tác công an thể hiện trong bản chất nhân đạo xã hội chủ nghĩa.
Trách nhiệm đạo đức của người công an nhân dân là đấu tranh cho cái thiện chiến
thắng cái ác, để những điều tốt đẹp được đâm chồi nảy lộc, cái xấu từng bước
loại trừ, công bằng và sự nghiêm minh của pháp luật được bảo đảm. Đấu tranh
phòng chống tội phạm là cuộc đấu tranh vì cái thiện, đòi hỏi người cán bộ công
an phải nhận diện đúng và biết phân biệt ranh giới của cái thiện và cái ác.
Muốn vậy phải có quan điểm biện chứng, khách quan toàn diện, lịch sử cụ thể
trong việc đánh giá hành vi phạm tội. Để bảo đảm vững chắc nền an ninh- trật tự công tác công an cần kết hợp nhuần
nhuyễn giữa xây dựng đạo đức và bảo đảm pháp luật.
Chương III
Những NGUYÊN Tắc
Của Đạo Đức Xã Hội Chủ Nghĩa
I.
Đạo Đức xã hội chủ nghĩa Và VAI Trò Của Nó TRONG Việc XÂY Dựng Xã Hội chủ nghĩa
1. Khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa
Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình
lịch sử - tự nhiên của việc thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao. Phản ánh lôgíc khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội đó, nền đạo
đức xã hội cũng có lôgíc phát triển tương ứng, cũng vận động và phát triển dần
dần từ thấp đến cao. Khởi đầu là đạo đức cộng sản nguyên thủy, tiếp đến là đạo
đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, cuối cùng, đỉnh cao
trong sự phát triển đó chính là đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Việc hình thành đạo đức cộng sản chủ nghĩa trải qua một quá trình
lâu dài cùng với sự đấu tranh cho sự thắng lợi của xã hội mới, xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa được sử dụng để chỉ là một giai
đoạn của đạo đức cộng sản chủ nghĩa (hiểu theo nghĩa rộng), gắn liền với việc
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản. Sự
hoàn thiện dần dần của đạo đức xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn tới đạo đức cộng sản chủ
nghĩa (hiểu theo nghĩa hẹp), tức là đạo đức được phát triển đến trình độ cao
nhất trong lịch sử nhân loại. Đó chính là nền đạo đức gắn liền với việc chấm
dứt mọi sự tha hóa và đối kháng giữa người và người, với việc khôi phục lại bản
chất chân chính, khẳng định những giá trị nhân đạo và tiến bộ của con người.
Đạo đức xã
hội chủ nghĩa là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là sự phản ánh những
lợi ích căn bản và vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh
nhằm xóa bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp công
nhân, đạo đức của giai cấp cách mạng, giai cấp đại diện cho sự xu thế phát
triển của thời đại hiện nay. Nó là sự phát triển hợp quy luật, là sự kế thừa và
phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp, những thành quả nhân đạo và tiến bộ
trong lịch sử phát triển của đạo đức nhân loại trước đây. Tuy nhiên, xét về bản
chất, đạo đức xã hội chủ nghĩa khác căn bản với đạo đức của các giai cấp bóc
lột trước đây (đạo đức chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản). Những nền
đạo đức này đều dựa trên cơ sở đối kháng giai cấp, có mục đích phục vụ lợi ích
của các giai cấp áp bức, bóc lột, chống lại nhân dân lao động. Còn đạo đức xã
hội chủ nghĩa là một nền đạo đức hướng tới việc xóa bỏ hoàn toàn giai cấp, xóa
bỏ mọi áp bức, bóc lột giữa người và người. Mặc dù rất gần gũi và có sự gắn bó
chặt chẽ với đạo đức của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động bị áp
bức, bị bóc lột trong xã hội có giai cấp trước đây (chẳng hạn, đạo đức của
những người tiểu tư sản, đạo đức của những người tiểu nông…), nhưng đạo đức xã
hội chủ nghĩa cũng khác với đạo đức của các giai cấp, các tầng lớp này ở tính
cách mạng, tính triệt để của mình. Chính vì thế, đạo đức xã hội chủ nghĩa
thường được gọi là đạo đức mới, nhằm phân biệt với đạo đức cũ trước đây, nhằm
khẳng định tính cách mạng, tiến bộ của nó.
Về mặt lịch sử, tư tưởng đạo đức xã hội chủ nghĩa đã
có mầm mống trước khi có xã hội xã hội chủ nghĩa, nó được hình thành từ cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm chống lại giai cấp tư sản, thiết lập địa vị
thống trị chính trị của mình. Chính nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp này đã
quyết định sự phát triển và nội dung của một nền đạo đức mới, mang tính xã hội
chủ nghĩa. Như V.I.Lênin đã viết, “đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục tùng lợi
ích đấu tranh giai cấp vô sản. Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra”[16].
Nói cách khác, tư tưởng đạo đức mới thực chất là tư tưởng góp phần đoàn kết tất
cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm
xóa bỏ chế độ cũ, sáng tạo xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Khi thiết lập được chính quyền của mình, giai cấp công
nhân lãnh đạo xã hội nhằm xây dựng một nền kinh tế mới, một cơ cấu xã hội -
giai cấp mới, một đời sống văn hóa - tinh thần mới có tính chất xã hội chủ
nghĩa. Đây là cơ sở kinh tế - xã hội - giai cấp và tinh thần bền vững cho sự
phát triển của đạo đức trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Đạo đức mới được hình
thành từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân sẽ ngày càng phát triển mạnh
mẽ và từng bước trở thành đạo đức chung của nhân dân, của nhân loại trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Vai trò của đạo đức xã hội chủ
nghĩa trong việc xây dựng XHCN
Sau khi giành thắng lợi về chính trị, giai cấp vô sản
thiết lập địa vị lãnh đạo chính trị của mình và dùng địa vị đó để từng bước xác
lập sự lãnh đạo về kinh tế, văn hóa và tư tưởng đối với toàn xã hội. Mỗi bước
thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới là mỗi bước giai cấp công nhân
khẳng định địa vị của mình về kinh tế, chính trị, tư tưởng và văn hóa, đồng
thời cũng có nghĩa là sự khẳng định vị trí của nền đạo đức xã hội chủ nghĩa
trong đời sống đạo đức của xã hội mới. Tuy nhiên, đạo đức xã hội chủ nghĩa lại
là một vũ khí tinh thần quan trọng, không thể thiếu được của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vai trò to lớn của
đạo đức mới được thể hiện trên một số mặt sau đây:
Thứ nhất, các lý tưởng và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa
là cơ sở để các đảng mác xít và chính
quyền nhà nước vô sản hoạch định chiến lược, sách lược, chính sách kinh tế,
chính trị, văn hóa - tư tưởng.
Đảng và nhà nước vô sản là người giáo dục, động viên,
lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tham gia phong trào cách mạng, từng bước
xây dựng xã hội mới không thể xa rời lý tưởng, những nguyên tắc tốt đẹp của đạo
đức xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, những giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa cũng được
coi là mục tiêu vươn tới của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giống như chính trị và
pháp quyền, đạo đức xã hội chủ nghĩa góp phần khẳng định lợi ích chân chính của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói, đạo đức xã hội chủ nghĩa gắn chặt sự
phát triển của kinh tế, chính trị - xã hội và tinh thần của xã hội mới. Việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải là một quá trình mang tính tự giác, tính tổ
chức, tính có kế hoạch và tính pháp lệnh. Theo nghĩa đó, đạo đức xã hội chủ
nghĩa cũng mang tính chính trị và tính pháp quyền.
Thứ hai, khi xâm nhập vào các tầng lớp, các giai cấp, các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đạo đức xã hội chủ nghĩa sẽ góp phần vào sự hoàn thiện cấu trúc đạo đức của các cá nhân và các tập
thể lao động trong xã hội xã hội chủ nghĩa, góp phần điều chỉnh, điều tiết nền
đạo đức mang tính thống nhất trong phạm vi toàn xã hội.
Đạo đức xã hội chủ nghĩa góp phần từng bước giải phóng
giai cấp vô sản và toàn bộ xã hội khỏi sự áp bức, bóc lột. Do địa vị kinh tế và chính trị đặc biệt của mình, giai cấp
vô sản chỉ có thể giải phóng được mình khi giải phóng toàn bộ các giai cấp và
các tầng lớp khác trong xã hội, giải phóng tất cả nhân loại. Lợi ích của giai
cấp vô sản về cơ bản thống nhất với lợi ích của các giai cấp và tầng lớp nhân
dân lao động khác. Cho nên, đạo đức xã hội chủ nghĩa tuy là đạo đức mang tính
giai cấp, nhưng khác với đạo đức của các giai cấp bóc lột trước đây, nó chứa
đựng những giá trị mang tính nhân đạo phổ biến. Đạo đức xã hội chủ nghĩa chính
là cơ sở cho sự hoàn thiện đạo đức của mỗi cá nhân cũng như các tập thể lao
động trong xã hội mới trên mọi lĩnh vực.
Mặt khác, chính nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự thống
nhất về chính trị và tinh thần của các giai cấp và các tầng lớp trong xã hội
mới là cơ sở bảo đảm cho tính phổ biến của các giá trị đạo đức mới trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhờ đó, đạo đức mới ngày càng có ý nghĩa quan
trọng định hướng sự phát triển đạo đức của các cá nhân, các tập thể lao động
trong xã hội mới. Nó trở thành một nhân tố góp phần điều tiết, điều chỉnh một
nền đạo đức ngày càng mang tính chất thống nhất trong phạm vi toàn xã hội. Đó
là xu hướng phát triển tất yếu của đời sống đạo đức trong xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Thứ ba, đạo đức xã hội chủ nghĩa còn là cơ sở để đấu tranh
chống lại mọi quan điểm sai lầm, xuyên tạc của đạo đức tư sản nói riêng, đạo
đức phi xã hội chủ nghĩa nói chung, bảo vệ những giá trị đạo đức, giá trị tinh
thần tiến bộ của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay
khi phong trào xã hội chủ nghĩa đang gặp những khó khăn và thử thách nghiêm
trọng, vai trò đó lại càng quan trọng và cấp bách. Thực tế, sau khi chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ những quan niệm đạo đức tư sản đã có ảnh
hưởng to lớn trong đời sống tinh thần và đạo đức của các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây. Những giá trị của đạo đức xã hội chủ nghĩa đang gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại trên con đường khẳng định tính ưu việt, tiến bộ của mình. Ngay ở
nước ta hiện nay, do sự chống đối của các thế lực thù địch và sự tác động phức
tạp của cơ chế thị trường cũng đã xuất hiện sự phục hồi, sự trỗi dậy và sự
truyền bá những tư tưởng đạo đức cũ. Những biểu hiện tiêu cực, sa sút phẩm chất
đạo đức cách mạng đã xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và có tác
động không nhỏ đến sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đạo đức xã hội
chủ nghĩa vừa phải đấu tranh kiên quyết chống lại các quan điểm sai lầm đó để
tự bảo vệ mình, vừa phải từng bước đổi mới để khẳng định vai trò to lớn của mình
trong những điều kiện lịch sử mới.
II. Một
Số NGUYÊN Tắc CƠ Bản Của Đạo Đức Xã Hội Chủ Nghĩa
Những nguyên tắc cơ bản của đạo đức xã hội chủ nghĩa
chính là nền tảng, là cơ sở của toàn bộ hệ thống đạo đức của xã hội xã hội chủ
nghĩa, đóng vai trò những chuẩn mực căn bản nhằm định hướng, khuyến khích cho
đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nắm được các nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng
để hiểu đúng bản chất của đạo đức xã hội chủ nghĩa và từng bước biến những
nguyên tắc đó thành hiện thực trong đời sống đạo đức của xã hội mới. Đó là
những nguyên tắc đạo đức tiến bộ nhất, khác về chất so với các nguyên tắc đạo
đức của các xã hội trước đây.
Xét cho cùng, những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ
nghĩa phản ánh nhu cầu đạo đức hiện thực trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội. Nội dung của chúng mang tính
khách quan, được quy định bởi địa vị và vai trò của giai cấp vô sản trong nền
sản xuất vật chất của xã hội, bởi sứ mệnh lịch sử, bản chất nhân đạo của giai
cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội mới công bằng, dân
chủ, văn minh.
Đối với hoạt động thực tiễn những nguyên tắc đạo đức
xã hội chủ nghĩa có vai trò quyết định đối với việc tu dưỡng và rèn luyện phẩm
chất đạo đức của các chủ thể đạo đức trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Mỗi người
cần phải nhận thức một cách sâu sắc, phải nỗ lực vươn lên để đáp ứng những đòi
hỏi của chúng.
Hiện nay, khi đề cập đến các nguyên tắc cụ thể, quan
điểm của các tác giả mác xít chưa hẳn đã hoàn toàn thống nhất, tuy nhiên người
ta có thể nói đến một số nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa quan trọng, không thể
thiếu được đối với đạo đức xã hội chủ nghĩa như: lòng trung thành với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa; lao động tích
cực, sáng tạo; chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân; chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa...
1. Lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội
Để
thực hiện mục tiêu xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội không có
phân chia giai cấp thì giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải trải qua một
quá trình đấu tranh vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài. Vì vậy, trung thành
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội được coi là một nguyên tắc đạo đức có
tính chất định hướng cho mọi suy nghĩ và hoạt động của từng con người và của cả
xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội
tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử xã hội, đã và
đang dần dần trở thành hiện thực trong cuộc sống. Đó là một xã hội dân chủ,
bình đẳng, nhân đạo nhất trong lịch sử nhân loại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội tức
là xây dựng một xã hội mà trong đó hiện tượng người bóc lột người bị xóa bỏ,
mọi nhu cầu chân chính của con người được đáp ứng một cách tốt nhất, quyền và
tự do của con người bảo đảm… Đấu tranh vì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là
đấu tranh cho một lý tưởng xã hội tiến bộ, nhân đạo, là thực hiện xu thế tất
yếu của lịch sử. Vì vậy, lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội là một nguyên tắc tất yếu, không thể thiếu của đạo đức xã hội chủ nghĩa,
góp phần vào thắng lợi chung của chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội còn là mơ ước và nguyện vọng
của đông đảo quần chúng nhân dân lao động từ ngàn đời nay. Cho nên, có thể nói,
lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là đòi hỏi
khách quan, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, mà còn là sự trung thành với
lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, từng bước góp phần biến mơ ước ngàn
đời của nhân dân lao động thành hiện thực xã hội. Chính điều này đã tạo nên sức
mạnh to lớn cho đạo đức xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới.
Đặc biệt, hiện nay khi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở trong nước cũng như trên thế giới đang gặp phải những khó khăn và thách
thức nghiêm trọng, khi hiện nay chủ nghĩa tư bản tạm thời có những ưu thế nhất
định so với chủ nghĩa xã hội thì nguyên tắc lòng trung thành với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng. Đó có thể coi là thước đo
để đánh giá phẩm chất của đạo đức cách mạng, là định hướng cơ bản cho sự rèn
luyện đạo đức của các tập thể và cá nhân trong xã hội mới.
Nội dung của nguyên tắc lòng trung thành với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội có thể được khái quát thành những yêu cầu sau đây:
- Trước hết,
mỗi người cần phải có một niềm tin khoa học vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã
hội. Niềm tin đó phải được xây dựng dựa trên những hiểu biết khoa học về chủ
nghĩa xã hội với tư cách là xu thế phát triển khách quan của lịch sử nhân loại,
là sự xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa nói riêng, cũng như mọi chế độ và hình
thức bóc lột, nô dịch con người nói chung. Điều này chứng tỏ lòng trung thành
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn có cơ sở, mang tính hiện
thực sâu sắc. Niềm tin khoa học vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội giúp con
người vượt qua những khó khăn, phức tạp, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội,
không hoang mang, dao động trước những luận điểm xuyên tạc của kẻ thù, cũng như
những thất bại tạm thời của phong trào cách mạng.
- Thứ hai,
lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với
những hành động cụ thể, với việc hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử - cụ thể của
mỗi người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi trên cơ sở phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân, trên cơ sở phát huy tính tự nguyện, tự giác của
mỗi người đóng góp sức mình vì lợi ích chung của xã hội. Mỗi người luôn phải
nêu cao tinh thần trách nhiệm trước công việc, phải đem hết tài năng và nhiệt
tình của mình để hoàn thành công việc mà cách mạng giao phó, không ngừng đấu
tranh vì sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người công nhân
phải hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất và kinh doanh. Người nông dân phải
hăng say tăng gia, sản xuất để có mùa màng bội thu. Người trí thức phải hăng
say miệt mài, sáng tạo; người chiến sĩ phải dũng cảm chiến đấu, chắc tay súng
giữ gìn an ninh, bảo vệ lãnh thổ của Tổ quốc. Người sinh viên, học sinh phải
học giỏi để đạt được những thành tích xuất sắc, trở thành những người con ưu
tú, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội…
- Thứ ba, lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội còn thể hiện ở ý chí kiên quyết, hành động dũng cảm đấu tranh chống lại mọi
sự áp bức, bất công, chống lại mọi hình thức nô dịch và tha hóa con người. Vì
chủ nghĩa xã hội không chỉ là một xã hội có sự tăng trưởng kinh tế cao, mà còn
là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tăng tưởng kinh tế phải đi liền với
thực hiện công bằng xã hội. Điều này có nghĩa trước hết phải đấu tranh chống
lại những hành động chống phá của các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của
chủ nghĩa đế quốc, giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, lòng
trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng đòi hỏi phải đấu tranh
chống cái cũ, cái tiêu cực, lạc hậu, bảo vệ, kế thừa và phát huy những tinh hoa
và giá trị truyền thống, những thành quả của cách mạng. Thực tế cho thấy, cuộc
đấu tranh nhằm bảo vệ kỷ cương, phép nước; chống tham nhũng, cửa quyền, ức
hiếp, trù dập nhân dân có một ý nghĩa cấp thiết trong đời sống xã hội ta hiện
nay, liên quan chặt chẽ đến việc giữ vững định hướng phát triển xã hội chủ
nghĩa của đất nước. Thực hiện tốt điều đó sẽ góp phần khắc phục một nguy cơ to
lớn đang thách thức sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Thứ tư,
lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải được thường
xuyên rèn luyện và giáo dục một cách có hệ thống thông qua thực tiễn cách mạng
của mỗi chủ thể. Điều này xuất phát từ chỗ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
là một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, gay go, quyết liệt, đòi hỏi
mỗi người phải không ngừng củng cố và trau dồi bản lĩnh chính trị, lập trường
giai cấp và tình cảm cách mạng của giai cấp công nhân. Tất nhiên, mỗi người cần
phải thông qua thực tiễn cách mạng để củng cố lòng trung thành của mình với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn con
người mới được thử thách, rèn luyện và trưởng thành. Con người càng tích cực
trong hoạt động thực tiễn cách mạng bao nhiêu thì càng biểu hiện lòng trung
thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Cho nên, khi biết kết
hợp chặt chẽ giữa giáo dục lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động sẽ giúp cho chủ thể đạo đức có một
nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố niềm tin và ý chí quyết
tâm phấn đấu cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, không bị hoang mang, dao động, sa
ngã trước luận điểm xuyên tạc và những thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù
địch với chủ nghĩa xã hội.
Nguyên tắc lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội có một tầm quan trọng đặc biệt không chỉ với đạo đức xã hội chủ
nghĩa mà còn với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung. Đó không chỉ
là một nguyên tắc của đạo đức mới mà còn là bản lĩnh chính trị cần phải có của
những con người mới đang phấn đấu không mệt mỏi để có thể từng bước biến những
lý tưởng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội thành hiện thực sinh động trong cuộc
sống. Đối với những cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công an nhân dân, việc
củng cố và tăng cường hơn nữa lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội lại càng được coi trọng. Thiếu nó, người cán bộ, chiến sĩ công an nhân
dân không thể hoàn thành tốt sự nghiệp giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ trật
tự an toàn xã hội, đặc biệt, trong tình hình mới hiện nay, khi kẻ thù của chúng
ta đang dùng trăm phương, ngàn kế để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”,
nhằm tiêu diệt chủ nghĩa xã hội từ bên trong.
2. Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa là cơ sở của đạo
đức XHCN
Chủ nghĩa tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản
của đạo đức xã hội chủ nghĩa, quy định bản chất của đạo đức xã hội chủ nghĩa,
cần thiết phải được xây dựng, duy trì và phát triển trong chế độ xã hội chủ
nghĩa. Nguyên tắc này cũng phản ánh nét đặc trưng, mang tính bản chất của đạo
đức xã hội chủ nghĩa, phân biệt nó với các nền đạo đức khác trước đây.
Trước tiên, cần phải hiểu tập thể là một cộng đồng người (một nhóm người) được tổ chức trên cơ sở của sự phân công và hợp tác lẫn nhau, cùng
nhau hoạt động nhằm mục đích chung đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho từng
thành viên trong cộng đồng và cho xã hội.
Một tập thể chân chính phải có các đặc trưng cơ bản
sau đây:
- Có mục đích đúng đắn, nghĩa là lợi ích tập thể thống
nhất với lợi ích chung của xã hội. Không thể gọi một băng cướp, một tổ chức
maphia với những hoạt động phi nghĩa, chống lại xã hội, vì lợi ích ích kỷ của
nó là một tập thể đích thực, theo đúng nghĩa của nó.
- Tập thể bao giờ cũng phải có một tổ chức nhất định
và bộ máy tổ chức phải thực sự hoạt động. Khi bộ máy tổ chức tê liệt, các thành
viên của nó không còn hoạt động nữa thì tập thể cũng không thể tồn tại được.
- Các lợi ích của tập thể, cá nhân, xã hội phải được
tôn trọng và được xử lý một cách hài hòa. Khi gặp xung đột giữa những lợi ích
này cần phải ưu tiên lợi ích của xã hội, của cộng đồng (tập thể).
Chủ nghĩa tập thể là tổng hợp những tư tưởng và hành vi đạo đức thể hiện sự thống nhất và sự
kết hợp hài hòa giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của tập thể, của cộng đồng,
của xã hội. Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa chính là kết quả phát triển
một cách hợp quy luật của lịch sử tư tưởng đạo đức nhân loại. Thực tế lịch sử cho thấy tính tập thể
(tính cộng đồng) của con người đã xuất hiện ngay từ rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Điều này bắt nguồn từ yêu cầu của quá trình lao động sản xuất của con
người. Tính tập thể của con người không những chỉ thể hiện ở những hoạt động có
tính xã hội trực tiếp, mà còn thể hiện ngay cả ở những hoạt động độc lập, mang
tính cá nhân của con người.
Khi tinh thần tập thể được thừa nhận là một giá trị
cao quý, một triết lý sống, một nguyên tắc sống của con người, nó dần dần phát
triển thành chủ nghĩa tập thể. Tương
ứng với mỗi giai đoạn nhất định trong lịch sử nhân loại bao giờ cũng gắn với
một mẫu người phù hợp với nó, với những phẩm chất đạo đức nhất định. Trong xã
hội nguyên thủy, tính cộng đồng, tính tập thể của con người đóng một vai trò to
lớn. Tuy nhiên, chưa thể nói trong xã hội nguyên thủy đã có chủ nghĩa tập thể
theo đúng nghĩa của nó, bởi vì ở đó vai trò của các cá nhân chưa xuất hiện và
được thể hiện đầy đủ. Khi chuyển sang các xã hội có giai cấp, thì đạo đức xã hội
cũng bị phân chia thành hai loại đạo đức đối lập nhau: đạo đức của giai cấp
thống trị và đạo đức của giai cấp bị trị. Chủ nghĩa cá nhân hình thành và khẳng
định vai trò to lớn của nó trong đời sống xã hội, nhất là khi xuất hiện chủ
nghĩa tư bản. Có thể nói trong xã hội có giai cấp, tuy chủ nghĩa tập thể vẫn
tiếp tục được phát triển, nhưng nó đã gặp phải sự chống đối và sự xung đột gay
gắt từ phía chủ nghĩa cá nhân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, khi quan hệ giữa cá
nhân và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có sự thay đổi một cách căn
bản thì chủ nghĩa tập thể mới có điều kiện phát triển, dần dần trở thành quan
hệ đạo đức ngày càng phổ biến trong xã hội. Tất nhiên, sự hình thành và phát
triển của chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và phức
tạp, gắn liền với sự trưởng thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội trên thực
tế.
Nguyên tắc
chủ nghĩa tập thể của đạo đức xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung cơ bản
sau đây:
- Chủ nghĩa tập thể trước hết đòi hỏi tất cả mọi người
trong tập thể phải có sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó thể hiện tính cộng
đồng, tính người trong cuộc sống xã hội. Nếu con người chỉ biết có mình, không
quan tâm đến con người xung quanh thì họ sẽ trở thành những kẻ ích kỷ, tầm
thường, không được xã hội thừa nhận và kính trọng. Chúng ta nên nhớ rằng, việc
mỗi người quan tâm, giúp đỡ những người khác cũng chính là quan tâm đến bản
thân mình. Bởi vì trong xã hội, trong cộng đồng, những con người luôn biết quan
tâm đến lợi ích của những người xung quanh, biết sống vì những người khác, thì
họ sẽ được mọi người quan tâm, giúp đỡ trở lại. Mọi người sẽ không bao giờ quên
ơn, hoặc bỏ rơi những người đó trong những hoàn cảnh khó khăn, cần có sự giúp
đỡ.
- Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi cá
nhân phải có trách nhiệm đối với tập thể. Cá nhân phải hết lòng vì tập thể,
phải coi tập thể như ngôi nhà của mình, có trách nhiệm chăm lo, xây dựng tập
thể ngày càng được củng cố và phát triển theo hướng lành mạnh và tốt đẹp. Tập
thể ngày càng vững mạnh là một đòi hỏi quan trọng, không thể thiếu của nguyên
tắc này. Do đó, khi giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến lợi ích của tập thể
và của cá nhân, nhất là khi có sự xung đột giữa lợi ích của các cá nhân với lợi
ích tập thể, thì nguyên tắc đạo đức mới đòi hỏi mỗi người phải luôn luôn đặt
lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân. Để tập thể phát triển ngày
càng hoàn thiện và vững mạnh, đòi hỏi mỗi thành viên phải không ngừng chăm lo
xây dựng khối đại đoàn kết, nhất trí trong tập thể, cần động viên hướng dẫn mọi
người có thái độ tích cực, có ý thức kỷ luật tự giác, có quan điểm sống lành
mạnh, có tinh thần tương trợ, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, thực sự thương yêu
như anh em trong gia đình...
- Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa cũng yêu cầu tập
thể phải có trách nhiệm đối với những cá nhân của mình. Điều đó được thể hiện
trước hết ở chỗ, tập thể có trách nhiệm chăm lo cho các cá nhân là thành viên
được phát triển mọi tài năng, trí tuệ để có điều kiện phục vụ tập thể, phục vụ
xã hội ngày một tốt hơn. Theo nghĩa này, có thể nói, chủ nghĩa tập thể cũng
chính là biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo. Chỉ có tập thể mới có đủ
điều kiện thuận lợi để giúp cho cá nhân có thể vượt qua những khó khăn và vươn
tới những khát vọng cao cả. Muốn làm tốt điều đó, tập thể phải thực sự trở
thành tổ ấm, thành chiếc nôi nuôi dưỡng cho tài năng cá nhân được nảy nở và
phát triển. Đồng thời, tập thể phải có trách nhiệm chăm lo đến cả đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của mọi thành viên; chăm lo đến cả đời sống hiện tại
và tương lai của họ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải phê phán quan niệm một
chiều, phiến diện trước đây về chủ nghĩa tập thể. Theo quan niệm đó, lợi ích cá
nhân chân chính bị gạt bỏ, bị hy sinh cho lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Thực
chất, đó là chủ nghĩa tập thể biến tướng, là nhân danh chủ nghĩa tập thể để chà
đạp lợi ích chân chính của cá nhân. Điều đó hoàn toàn trái với nguyên tắc chủ
nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa còn đòi hỏi phải
kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức. Chủ nghĩa cá nhân là
biểu hiện của thói ích kỷ, vụ lợi, ăn bám, hiếu danh, muốn đứng trên xã hội,
không biết hy sinh vì lợi ích của người khác. Chủ nghĩa tập thể đối lập hoàn
toàn với chủ nghĩa cá nhân, bởi vì lý tưởng của chủ nghĩa tập thể là đem lại tự
do và hạnh phúc cho mọi người trong xã hội. Như Mác đã nói, sự giải phóng xã
hội là điều kiện để giải phóng cá nhân. Vì xã hội có được sự giải phóng thì con
người trong xã hội mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Không đấu tranh cho hạnh
phúc của toàn xã hội thì không thể đạt được hạnh phúc lâu bền cho mỗi cá nhân.
Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa luôn bảo vệ lợi ích chân chính của mỗi cá
nhân, nhưng cũng kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, nhất là chủ nghĩa cá
nhân cực đoan.
Như vậy, khi xã hội càng phát triển giàu mạnh thì cuộc
sống của mọi người cũng sung sướng và hạnh phúc. Bởi thế giữa xã hội và cá nhân
có quan hệ tương hỗ với nhau, cái này làm tiền đề cho cái kia nên mọi người có
trách nhiệm chăm lo lợi ích của mình. Nếu con người sống vì cá nhân, ích kỷ sẽ
trở nên thấp hèn dễ dẫn con người đến hành động tội lỗi và tàn ác. Vì vậy, cần
phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, cũng
cần phân biệt rõ ràng chủ nghĩa cá nhân với lợi ích chân chính của mỗi cá nhân.
Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa không chống lợi ích chân chính của mỗi cá
nhân, hơn nữa còn bảo vệ lợi ích chân chính của cá nhân. Bởi vì, chỉ có thông qua
việc bảo vệ lợi ích chân chính của các cá nhân mới có thể thực hiện được lợi
ích của tập thể, của xã hội.
Nguyên tắc chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa đóng một
vị trí quan trọng trong đời sống đạo đức, cũng như đời sống tinh thần của chủ
nghĩa xã hội. Cùng với sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
nguyên tắc này càng có vai trò to lớn trong việc chỉ đạo mọi suy nghĩ và hành
động của con người, trong việc xây dựng nền đạo đức mới, tiến bộ. Hiện nay,
trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần
đặc biệt chú ý đến việc giáo dục tinh thần tập thể chân chính cho mỗi người.
Bởi vì, lợi ích chân chính của cá nhân bao giờ cũng phải hài hòa với lợi ích
tập thể, lợi ích xã hội. Xã hội mới luôn tôn vinh những con người không chỉ
biết sống cho mình mà còn biết sống cho tập thể, cho xã hội. Coi trọng nguyên
tắc tập thể xã hội chủ nghĩa, vận dụng sáng tạo nguyên tắc đó trong hoạt động
thực tiễn là cơ sở để mỗi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công an nhân dân có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của Đảng
và nhân dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia; giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội. Ngược lại, nếu không tôn trọng, thực hiện tốt nguyên tắc này thì
khó có thể khắc phục một cách có hiệu quả chủ nghĩa cá nhân dưới những hình
thức tinh vi, phức tạp, nhất là trong tình hình hiện nay.
3. Lao động tự giác, sáng tạo
Cùng với
nguyên tắc chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa, thì nguyên tắc lao động tự giác,
sáng tạo là một nguyên tắc không thể thiếu được của đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Đây chính là cội nguồn, gốc rễ của đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Như ta đã
biết, lao động là hoạt động sáng tạo của con người cải biến tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của con người, nhu cầu phát
triển tiến bộ của xã hội. C.Mác đã từng coi lao động là "lực lượng bản
chất của con người", là cái thuộc về bản chất của con người.
Thái độ đối với lao động được coi là thước đo
quan trọng nhất, là chuẩn mực quan trọng nhất để đánh giá phẩm chất đạo đức của
con người. Tất nhiên, khi đánh giá con người không thể coi nhẹ các chuẩn mực
như lương tâm trong sáng, động cơ hành động đúng đắn, nhu cầu tinh thần và xã
hội phát triển cao… Nhưng con người chỉ được kính trọng, được đánh giá cao khi
ở họ có thái độ lao động đúng đắn, lao động tự giác, có kỷ luật cho mình và cho
xã hội mà mình làm chủ. Phẩm chất đạo đức của con người mới trước hết được thẩm
định bằng thái độ lao động, hiệu quả lao động, đóng góp của họ với xã hội, lời
nói đi đôi với việc làm, động cơ và hiệu quả lao động thống nhất với nhau.
Tinh thần lao động tự giác, sáng
tạo là thành quả to lớn trong sự phát triển của đạo đức nhân loại, là cội nguồn
của đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát ở chỗ, đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức
của người lao động, của giai cấp lao động. Nó kế thừa và phát huy thái độ, tinh
thần yêu lao động, quý trọng lao động của con người trong lịch sử. Chính lao
động là cơ sở đem lại hạnh phúc cho con người, cho xã hội. Hơn nữa, mục đích tự
thân của chủ nghĩa xã hội là thỏa mãn tối đa nhu cầu ngày càng tăng của con
người, để đạt được điều đó đòi hỏi chủ nghĩa xã hội phải sản xuất ngày càng
nhiều của cải vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi con người phải lao động một
cách nhiệt tình, sáng tạo với năng suất, chất lượng ngày càng cao vì chủ nghĩa
xã hội.
V.I.Lênin
đã từng nói, thái độ lao động mới, thái độ cộng sản chủ nghĩa là một vấn đề
quan trọng nhất, căn bản nhất cho sự thắng lợi của chế độ xã hội mới đối với
các xã hội cũ. Chủ nghĩa xã hội chỉ bắt đầu khi những người công nhân bình
thường nhất biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến
việc nâng cao năng suất lao động vì sự thắng lợi của trật tự xã hội mới. Tất
nhiên, việc xây dựng thái độ lao động mới là vô cùng khó khăn, phức tạp. Theo
Lênin, khác với nhiệm vụ chiến đấu đánh đổ chế độ cũ, nhiệm vụ xây dựng xã hội
mới không thể giải quyết bằng một biện pháp, một hành động nhất thời được. Nó
đòi hỏi phải được giải quyết bằng một loạt những biện pháp lâu dài với một tinh
thần kiên trì, bền bỉ và luôn gắn bó chặt chẽ với công tác quần chúng hàng
ngày.
Tinh thần lao động tích cực, sáng
tạo của con người mới thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Lao
động tích cực, sáng tạo; lao động có năng suất, có chất lượng và hiệu quả. Đây
là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá phẩm chất đạo đức của con người mới.
Con người mới phải là con người lao động, hơn nữa phải lao động một cách tự
giác, lao động đem lại lợi ích cho mình và góp phần vào sự phát triển tiến bộ
của xã hội. Mọi kiểu lao động hình thức, tắc trách, kém hiệu quả và vụ lợi,
hoàn toàn xa lạ với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Thực chất, đó là tàn dư của quan
niệm cũ về lao động, không thể chấp nhận được trong đời sống đạo đức của xã hội
mới.
- Chăm lo
thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí. Tinh thần lao động mới đòi hỏi
người lao động phải biết thực hành tiết kiệm, thực chất là biết quý trọng lao
động của mình cũng như của nhân dân lao động nói chung. Mọi thành quả do nhân
dân lao động tạo ra phải phục vụ con người, phục vụ nhân dân, góp phần tích cực
vào sự tiến bộ xã hội. Mọi sự tham ô, lãng phí trong lao động sản xuất đều trái
với đạo đức xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động. Để
phát triển đất nước cần coi tiết kiệm là quốc sách, kiên quyết đấu tranh với
mọi hành vi tham ô, lãng phí tài sản của đất nước, của nhân dân.
- Coi
trọng cả lao động trí óc và lao động chân tay. Đạo đức xã hội chủ nghĩa coi
trọng mọi lao động của con người, nó hoàn toàn xa lạ với những quan điểm đạo
đức cũ của các giai cấp bóc lột, coi thường lao động, nhất là lao động chân
tay. Mọi dạng lao động, kể cả lao động bình thường nhất, đều đáng quý trọng.
Việc đánh giá con người phải căn cứ vào sự đóng góp bằng lao động cho lợi ích
thiết thực của con người, của xã hội, chứ không phải vào hình thức lao động cụ
thể. Đó là sự tiến bộ của đạo đức xã hội chủ nghĩa so với các nền đạo đức trong
các xã hội có giai cấp trước đây.
- Biết
quý trọng lao động của mình và lao động của người khác… Thái độ chỉ quý trọng
lao động của mình, coi thường lao động của người khác hoàn toàn xa lạ với đạo
đức xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, những thành quả mà nhân loại có được
đều do kết quả của sự lao động tích cực, sáng tạo của các thế hệ con người từ
xưa đến nay mà có. Vì vậy, mỗi người chúng ta cần phải biết nâng niu, giữ gìn
và phát huy những thành quả đó trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa
xã hội chỉ có được khi con người biết kế thừa toàn bộ những tri thức, kinh
nghiệm, những giá trị do nhân loại đã tạo ra trong lịch sử của mình, như
V.I.Lênin đã từng nhắc nhở.
Như đã
nói, nguyên tắc lao động tích cực, sáng tạo là thước đo cơ bản để đánh giá phẩm
chất của con người mới. Vì vậy, nói đến con người mới trước tiên phải nói đến
con người lao động. Mỗi người cần thông qua lao động mà rèn luyện, phấn đấu trở
thành con người có ích cho xã hội, cho dân, cho nước. Hiện nay, chúng ta đang
tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, trước mắt là sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo, kém
phát triển. Đất nước đang đòi hỏi ngày càng nhiều những con người biết lao động
một cách tích cực, sáng tạo, những con người biết cách làm giàu cho chính mình,
cho cộng đồng và cho xã hội. Mọi thu nhập, mọi sự làm giàu có được do lao động
chân chính của mỗi người đều được xã hội thừa nhận, khuyến khích. Ngược lại,
mọi thu nhập, mọi sự làm giàu bất chính, không do lao động chân chính của bản
thân mà có được đều bị lên án, đều trái với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đối với
lực lượng công an nhân dân, thực hiện tốt nguyên tắc lao động tích cực, sáng
tạo luôn đòi hỏi mỗi người cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công an phải biết
phát huy tích tích cực của mình, “tận tụy” với công việc, làm việc có trách
nhiệm, có hiệu quả nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trong tình hình mới, góp phần vào thắng lợi chung của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội của đất nước.
4. Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân
Có thể nói, đây là hai nguyên tắc của đạo đức xã hội
chủ nghĩa, nhưng chúng lại kết hợp chặt chẽ với nhau, gắn bó không thể tách rời
lẫn nhau. Không thể hiểu đúng một nguyên tắc nào nếu tách rời hoặc đối lập
chúng với nhau.
Chủ nghĩa yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu quê hương,
yêu bạn bè, yêu bà con ruột thịt của mình, cũng như từ tình yêu con người, tinh
thần đoàn kết, tinh thần tập thể, tình yêu đất nước… Thực tế, đó là những tình
cảm tự nhiên, có tính chất phổ biến của con người, ở bất kỳ dân tộc nào. Mỗi
con người đều có quê hương, đất nước, dân tộc riêng của mình, đều có quyền yêu
cội nguồn, yêu quê hương, dân tộc, đất nước mình; đều tìm thấy niềm tự hào về
quê hương, về truyền thống dân tộc, đất nước mình. Tình yêu đó ngày càng được
vun đắp, được củng cố, phát triển lên thành chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu
nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc và khát vọng
phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa yêu nước là một trong những
tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm tồn tại
của các tổ quốc biệt lập"[17].
Chủ nghĩa yêu nước là sự phát triển cao độ của lòng
yêu quê hương, đất nước. Khi đạt tới chủ nghĩa yêu nước thì lòng yêu nước đã
trở thành một triết lý nhân sinh, triết lý xã hội, một lối sống, một trình độ
sâu sắc và có hệ thống, tự giác chi phối mọi hành vi và mọi ứng xử của con
người. Nó bao gồm cả những tư tưởng và tình cảm yêu nước, vừa là nguyên tắc đạo
đức lại vừa là nguyên tắc chính trị điều chỉnh hành vi của con người.
Chủ nghĩa yêu nước có quá trình phát triển lâu dài,
mang tính lịch sử sâu sắc. Trong xã hội có giai cấp chủ nghĩa yêu nước cũng
mang tính giai cấp. Nó lệ thuộc vào lợi ích, vào lập trường quan điểm của giai
cấp thống trị. Chủ nghĩa yêu nước theo quan niệm của giai cấp phong kiến, giai
cấp tư sản thực chất là bảo vệ lợi ích riêng, ích kỷ của giai cấp phong kiến và
tư sản thống trị. Nhiều khi, vì lợi ích giai cấp của mình các giai cấp thống
trị sẵn sàng bán rẻ lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước, chống lại lợi ích của
nhân dân lao động nước mình. Chủ nghĩa yêu nước theo lập trường của giai cấp
công nhân khác về chất với chủ nghĩa yêu nước theo lập trường của các giai cấp
bóc lột, thống trị trước đây. Nó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, của
đất nước, phù hợp với xu hướng khách quan của lịch sử nhân loại. Đó là chủ
nghĩa yêu nước tiến bộ nhất, chân chính nhất trong thời đại ngày nay.
Nội dung của
chủ nghĩa yêu nước được thể hiện cụ thể như sau:
- Yêu nước trước hết là yêu nhân dân lao động. Bởi vì,
quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của đất nước, là hạt nhân của đất nước,
là những người làm nên lịch sử và xây dựng đất nước ngày càng tiến bộ hơn. Dù ở
bất cứ thời đại nào, dân và nước đều có quan hệ hữu cơ, không thể tách rời lẫn
nhau. Vì thế, yêu dân tạo nên cơ sở đích thực của chủ nghĩa yêu nước chân
chính. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với đạo lý và xu thế phát triển khách
quan của lịch sử. Chủ nghĩa yêu nước phải luôn gắn liền với lợi ích của nhân
dân lao động, gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nâng cao sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, làm cho người
lao động trở thành người chủ chân chính của đất nước.
- Yêu nước phải trên cơ sở lập trường của giai cấp
công nhân, yêu nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Ngày nay giai cấp
công nhân là trung tâm của thời đại. Chỉ có giai cấp công nhân mới là người đại
diện chân chính, người đấu tranh kiên quyết để bảo vệ những lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân lao động. Nếu không đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân thì không thể giải quyết triệt để vấn đề dân tộc, không tránh được những
sai lầm của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi xuất phát từ lợi ích giai cấp ích kỷ. Cơ
sở lý luận và thực tiễn của điều này là ở chỗ, giai cấp công nhân là lực lượng
tiên tiến nhất trong dân tộc, họ có lý luận, có lý tưởng sống phù hợp với lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân lao động. Chỉ có đi theo giai cấp công nhân làm
cách mạng xã hội chủ nghĩa triệt để thì lợi ích chân chính của những người lao động,
của dân tộc mới được bảo đảm một cách chắc chắn. Đồng thời, chỉ có giai cấp
công nhân mới kiên quyết đấu tranh để xóa bỏ tận gốc những cơ sở kinh tế, xã
hội làm nảy sinh chế độ người bóc lột người, dân tộc này bóc lột dân tộc khác.
Lý tưởng và hành động cách mạng của giai cấp công nhân luôn luôn chứa đựng nội
dung nhân đạo cao cả, sâu sắc và trong sáng đối với con người. Chính vì thế,
nội dung của chủ nghĩa yêu nước chân chính trong thời đại ngày nay phải gắn
liền với yêu nước xã hội chủ nghĩa.
Thực tế cho
thấy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là Tổ quốc của nhân dân, chứ không phải là tài
sản của cá nhân nào. Có nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là do thành quả đấu
tranh cách mạng của toàn dân, nên nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Mục đích của nhà nước xã hội chủ nghĩa là giải phóng nhân dân lao động
khỏi mọi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống tự do, ấm no hạnh phúc cho con
người. Đó là nhà nước đại diện cho sự công bằng và văn minh nhất. Lý tưởng xã
hội chủ nghĩa và lý tưởng dân tộc là thống nhất. Đồng thời, để xây dựng Tổ
quốc, mọi người phải có trách nhiệm và ý thức tự giác đóng góp sức mình vào sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Đó cũng là nét mới, tiến
bộ của chủ nghĩa yêu nước chân chính theo tinh thần của đạo đức xã hội chủ
nghĩa, khác căn bản với đạo đức cũ.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là biểu hiện
bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân nhằm đoàn kết, giúp đỡ và giải phóng
nhân dân lao động toàn thế giới khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột của kẻ thống
trị, vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân xuất phát từ sự thống nhất về lợi ích của giai cấp công nhân
nói riêng và nhân dân lao động nói chung trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng mình khi
đồng thời giải phóng tất cả xã hội khỏi áp bức bóc lột trên phạm vi toàn thế
giới.
Lịch sử loài người đã cho thấy, dân tộc và giai cấp,
dân tộc và quốc tế là những vấn đề có mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời.
Muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc phải làm tốt nhiệm vụ quốc tế, đồng
thời làm nhiệm vụ quốc tế cũng là để góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng dân
tộc. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân đã trở thành yêu cầu tất yếu, không thể thiếu của đạo đức xã
hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân hay chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa có những
nội dung cơ bản sau đây:
- Trong khi bảo vệ độc lập về lãnh thổ, kinh tế, chính
trị, văn hóa của dân tộc mình chúng ta cần phải thừa nhận, tôn trọng độc lập
của các dân tộc khác. Mọi quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, giàu
hay nghèo, phát triển hay đang phát triển... đều bình đẳng và đều có quyền sống
theo cách của mình, lựa chọn con đường phát triển riêng cho mình. Yêu nước trên
lập trường của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là kiên quyết đấu tranh
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa bá quyền trong quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia... Thực
chất, đó là sự khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự quyết dân tộc trong quan hệ
quốc tế.
- Yêu mến Tổ quốc, yêu mến nhân dân mình đồng thời
cũng phải yêu nhân dân lao động các nước khác. Biết quý trọng những giá trị,
bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời cũng phải biết trân trọng giữ gìn
và tiếp thu những giá trị văn hóa của các dân tộc khác để làm phong phú văn hóa
của dân tộc mình, góp phần làm phong phú nền văn hóa chung của nhân loại. Mọi
thái độ và hành động chống nhân loại, phá hoại văn hóa chung của nhân loại đều
xa lạ với đạo đức xã hội chủ nghĩa.
- Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc mình, đồng thời tích cực ủng
hộ, giúp đỡ, đoàn kết với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên thế giới vì mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Điều này đã được thể hiện một cách cô đọng
trong khẩu hiệu cách mạng mà V.I.Lênin đã đưa ra trước đây và hiện nay vẫn còn
ý nghĩa cấp bách: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại”.
- Chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc
phê phán những quan niệm sai lầm về vấn đề dân tộc, đặc biệt là quan niệm về
vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp tư sản. Nếu nguyên tắc dân tộc tư
sản thể hiện rõ rệt chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tuyên truyền cho sự thù ghét
giữa các dân tộc, giữa nhân dân các nước, thì chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân lại đòi hỏi phải xây dựng cho được mối quan hệ chân chính, hợp nhân tính
giữa các dân tộc, giữa nhân dân lao động của tất cả các nước trên thế giới.
Những tư tưởng nước lớn, bành trướng, bá quyền, chủ nghĩa ly khai... đều xa lạ
với đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống đạo đức nói riêng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội ta hiện nay.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh một cách hùng hồn, khi chủ nghĩa yêu
nước được kết hợp với chủ nghĩa quốc tế đã tạo cho chúng ta một sức mạnh vô
cùng to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Vì thế, Đảng ta
luôn khẳng định, con người mới Việt Nam phải là con người có lòng yêu nước nồng
nàn, trung thành vô hạn với Tổ quốc và nhân dân, đồng thời là con người có tinh
thần quốc tế trong sáng. Chỉ có như vậy mới góp phần tạo ra động lực to lớn đưa
đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, theo mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong tình hình hiện nay, khi tình hình thế giới có
những biến động nhanh chóng và phức tạp, khi phong trào xã hội chủ nghĩa đang
gặp nhiều khó khăn, rơi vào khủng hoảng, khi chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng
phản động quốc tế đang tạm thời có những ưu thế nhất định thì nguyên tắc chủ
nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa lại
càng vị trí và ý nghĩa to lớn trong đời sống đạo đức xã hội. Lực lượng công an
nhân dân càng phải nắm vững và quán triệt nguyên tắc chủ nghĩa yêu nước chân
chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân trong mọi
hoạt động của mình. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay, một mặt, chúng ta cần phải kiên quyết giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
khẳng định quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị phù hợp với điều kiện dân tộc
mình; mặt khác, chúng ta phải hòa nhập với xu thế chung của thời đại, tôn trọng
và thực hiện các cam kết quốc tế, bảo vệ hòa bình, giữ vững an ninh để cùng hợp
tác, phát triển theo tinh thần bình đẳng, các bên cùng có lợi, không can thiệp
vào công cuộc nội bộ của nước khác.
5. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu tư tưởng tiến bộ có
từ rất lâu, nhưng nó được phát triển mạnh mẽ trong thời Phục hưng và cận đại.
Nói đến chủ nghĩa nhân đạo là nói đến thái độ có thiện chí, có sự thông cảm, có
tình yêu thương sâu sắc của con người đối với con người, là sự tận tụy phục vụ
lợi ích của con người, và phấn đấu đem lại tự do và hạnh phúc thực sự cho con
người. Nói cách khác, chủ nghĩa nhân đạo
là tổng hợp những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát
triển toàn diện của con người, bảo vệ tính người trong các quan hệ xã hội.
Trước hết, cần phân biệt chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ
nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo chung chung, chủ nghĩa nhân đạo theo nghĩa thông
thường. Bởi vì, chủ nghĩa nhân đạo hiểu theo nghĩa thông thường có tính chất
rất hạn hẹp, không thể bao hàm đầy đủ mọi nội dung đối với con người như chủ
nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa. ở đó tính nhân đạo xã hội thường được hiểu đơn
giản là tình thương, sự tha thứ cho tội lỗi của con người, lòng hào hiệp và sự
phóng khoáng trong tâm hồn của con người, thái độ sẵn sàng giúp đỡ đối với
những người khổ sở hoặc bạc phận…
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa cũng khác về chất
so với chủ nghĩa nhân đạo mang tính tôn giáo như chủ nghĩa nhân đạo của Kitô
giáo, của Phật giáo... Nhìn chung các tôn giáo chỉ khuyên con người ta thương
yêu nhau một cách chung chung, hoặc trừu tượng. Họ chỉ nói đến trách nhiệm của
con người trước đấng tối cao là Thượng đế, né tránh sự phê phán và sự đấu tranh
ở trần gian. Cho nên, xét về thực chất, chủ nghĩa nhân đạo tôn giáo là thứ chủ
nghĩa nhân đạo mang tính chất tinh thần và ảo tưởng.
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa không những khác,
mà còn đối lập với chủ nghĩa nhân đạo tư sản. Trong lịch sử nhân loại chủ nghĩa
nhân đạo tư sản là một bước tiến lớn, mang tính lịch sử nhằm giải phóng con
người khỏi những xiềng xích của xã hội phong kiến, của tôn giáo. Tuy nhiên, bản
chất của chủ nghĩa tư bản là áp bức, bóc lột, cho nên chủ nghĩa nhân đạo tư sản
vẫn còn nhiều hạn chế vốn có gắn chặt với các xã hội có phân chia giai cấp.
Chúng ta không phủ nhận lòng tốt của các nhà tư bản khi họ bỏ tiền ra xây dựng
trường học, nhà thương, xây dựng nhà tế bần, cứu trợ, cứu tế những người nghèo
khổ… Nhưng xét cho cùng, đó cũng chỉ là hành động bố thí của nhà tư bản cho
người lao động dưới danh nghĩa làm phúc. Hành động đó không thể xóa nhòa được
sự áp bức, bóc lột tàn bạo, không thể che đậy trật tự xã hội phi nhân tính đang
làm tha hóa bản chất con người trong xã hội tư bản chủ nghĩa trước đây cũng như
hiện nay.
Như vậy, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là sự kế
thừa và phát triển những thành quả và những giá trị nhân đạo tiến bộ trong lịch
sử nhân loại. Đó là chủ nghĩa nhân
đạo mang tính chất hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo trong hành động nhằm giải
phóng thật sự con người, chứ không đơn thuần là những cảm thông, thương xót về
thân phận khổ đau của con người.
Nguyên tắc
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau đây:
- Trước hết,
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh để xóa bỏ
tận gốc mọi hình thức áp bức, bóc lột và nô dịch con người. Chủ nghĩa nhân đạo
xã hội chủ nghĩa là lý tưởng nhân đạo triệt để nhất, là biện pháp thực tế nhất
để biến mong ước nhân đạo tốt đẹp thành hiện thực phổ biến, tạo lập những điều
kiện khách quan, hiện thực để từng bước giải phóng con người, giải phóng xã
hội. Nói cách khác, để thực hiện chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa thì cần
phải nhân đạo hóa hoàn cảnh, làm cho quan hệ xã hội mà con người sinh sống trở
thành nhân đạo hơn. Nhiệm vụ lịch sử này chỉ có thể hoàn thành được khi xóa bỏ
mọi cơ sở kinh tế và xã hội cho sự xuất hiện và tái sinh việc phân hóa xã hội
thành các giai cấp đối kháng. Đó cũng là điều kiện để xóa bỏ mọi sự tha hóa,
khôi phục lại bản chất chân chính của con người - một bước tiến vĩ đại, chưa
từng có trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay, phù hợp với xu thế khách quan
của sự tiến bộ xã hội.
- Thứ hai,
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa không chỉ bó hẹp trong việc tạo ra cho con
người những điều kiện sinh hoạt vật chất đầy đủ, mà còn đòi hỏi phải quan tâm,
chăm lo đến những lợi ích tinh thần đa dạng của con người, còn biết bảo vệ
những phẩm giá và phát huy tài năng của con người. Mọi hành vi xâm phạm, chà
đạp lên phẩm giá và tài năng của con người đều bị nghiêm cấm, đều bị coi là
hành vi thiếu văn hóa và phản nhân đạo. Với quan điểm nêu trên rõ ràng chủ
nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa chứa đựng nội dung toàn diện và sâu sắc. Nó thể
hiện đậm nét bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, phù hợp với trào lưu tiến
hóa của lịch sử. Vì thế, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa ngày càng có ý
nghĩa phổ biến và được thực hiện rộng rãi đối với toàn xã hội. Điều này trái
hẳn với sự xuyên tạc của các quan niệm phản mác xít cho rằng chủ nghĩa nhân đạo
xã hội chủ nghĩa mang tính chất phiến diện, chỉ đơn thuần là sự giải phóng con
người về mặt kinh tế mà thôi. Thực tế, theo quan niệm nhân đạo mác xít, giải
phóng kinh tế mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải đủ để giải phóng con
người, để con người phát triển tự do và toàn diện.
- Thứ ba,
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đấu tranh kiên quyết chống lại
cái ác, lên án và trừng trị những kẻ gây tội ác, xâm phạm đến quyền và những
lợi ích chính đáng của mỗi con người, cũng như toàn thể loài người. Như đã
biết, chủ nghĩa nhân đạo mang tính lịch sử cụ thể. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc,
mỗi giai cấp đều đưa vào chủ nghĩa nhân đạo những nội dung phù hợp với mình.
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa không phải là nhân đạo chung chung với hết
thảy mọi người, nhân đạo với cả những người không còn nhân tính, như nhiều
người lầm tưởng. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa vẫn mang tính giai cấp sâu
sắc. Nhân đạo ở đây có nghĩa là nhân đạo với những người lương thiện, những
người lao động, những người chân chính, chứ không phải nhân đạo với kẻ cướp,
bọn ăn bám, bóc lột. Do đó, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi ở mỗi
người phải có thái độ căm thù và khinh ghét những thói xấu xa, ăn bám, xâm phạm
đến lợi ích của cá nhân, của tập thể và quyền tự do của những người lao động.
Nói cách khác, khi thể hiện sự công minh rõ ràng, có trách nhiệm cao vì con
người, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi ở mỗi con người một lối
sống có trách nhiệm với người khác, với cộng đồng và với xã hội.
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa nhân
đạo cao đẹp nhất, là hạt nhân của đạo đức xã hội chủ nghĩa, nó ngày càng bao
trùm và xuyên suốt mọi quan hệ của con người trong xã hội mới. Vì vậy, mỗi
người phải không ngừng rèn luyện, phấn đấu, lao động và học tập để góp phần xây
dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp, trọng lẽ phải, giàu tình thương, một
xã hội đầy nhân tính. Điều đó cũng có nghĩa là biến lý tưởng nhân đạo tốt đẹp
của nhân loại thành hiện thực trong cuộc sống, làm cho xã hội ngày càng nhân
đạo.
Đối với người cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công an
nhân dân việc nhận thức và thực hiện những yêu cầu của chủ nghĩa nhân đạo xã
hội chủ nghĩa có một tầm quan trọng đặc biệt. Bởi vì, việc thương yêu, quý trọng
con người, vì con người, bảo vệ tự do, phẩm giá của con người, nhất là của nhân
dân lao động luôn là đòi hỏi không thể thiếu trong mọi hoạt động của lực lượng
công an nhân dân. Chỉ có như vậy, người cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công
an mới kiên quyết, dũng cảm đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hành động của kẻ
thù, giữ gìn an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, góp phần từng
bước nhân đạo hóa đời sống xã hội.
Chương IV
Tư tưởng hồ chí
minh về đạo đức cách mạng
I. Nền tảng hình thành tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
1. Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng tinh hoa đạo đức truyền
thống dân tộc
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trên
nền tảng đạo đức truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng kiên cường bất khuất
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia hình thành từ rất sớm, có bề
dày lịch sử. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử làm người, dựng làng, giữ
nước. Truyền thống của dân tộc Việt Nam là giáo dục con người phải tự tu dưỡng
trọn đời để làm người, dựng làng, giữ nước. Đất nước Việt Nam có vị trí chiến
lược ở Đông Nam á, vì vậy kẻ thù luôn tìm cách xâm lược, thôn tính. Trải qua
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ
khác đã anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm
bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Đất nước Việt Nam đã trở thành Tổ quốc
thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý
sống, niềm tự hào và là nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước… Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của
các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[18].
Yêu nước không chỉ
là một tình cảm, một phẩm chất tinh thần mà đã phát triển thành một triết lý
nhân sinh, một chủ nghĩa – Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính,
thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam xuyên suốt lịch sử của dân tộc.
Chính sức mạnh của
truyền thống yêu nước ấy đã thúc đẩy Nguyễn Sinh Cung, sau này là Nguyễn Tất
Thành, Nguyễn ái Quốc đi tìm đường cứu nước. Chỉ với cái tên Nguyễn ái Quốc –
“Nguyễn yêu nước” cũng đã thể hiện quan điểm yêu nước, thương dân của Người. Nó
cổ vũ, động viên Người trong suốt quá trình đi tìm đường cứu nước và đưa Người
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở lòng nhân ái Việt Nam.
Dân tộc Việt nam có
đạo lý sống cao đẹp là coi trọng con người, thương yêu quý trọng con người,
sống trọng tình, trọng nghĩa… Đạo lý sống đó được biểu hiện trong tâm lý cộng
đồng, trong cách ứng xử giữa con người với con người. Đạo lý sống trọng tình,
trọng nghĩa đã ăn sâu vào trong tâm thức con người và trở thành tiêu chuẩn cao
nhất của con người Việt Nam. Trong cuộc sống thường nhật, người Việt Nam thường
nhắc nhau: ở cho có đức, có nhân; thương người như thể thương thân; nhiễu điều
phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng… Lòng nhân ái đó
không chỉ được thể hiện trong cuộc sống cộng đồng mà còn được thể hiện trong
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: lấy đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy trí nhân
để thay cường bạo; hay đạo làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to
phải lấy nhân nghĩa làm đầu, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Hồ Chí Minh coi
tình thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của
người cách mạng.
- Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ đạo đức cộng đồng, truyền thống cộng đồng của
người Việt. Đó là tinh thần đoàn kết, tinh thần đồng tâm hiệp lực, tính cộng
đồng cao của người Việt.
Việt Nam về điều kiện tự nhiên: nằm ở Đông
Nam châu á, có một vị trí quan trọng chiến lược ở Đông Nam á, kẻ thù luôn nhòm
ngó xâm lược. Nhân dân Việt Nam phải luôn đương đầu với những cuộc chiến tranh
xâm lược từ bên ngoài. Mặt khác, điều kiện địa lý Việt Nam không thuận lợi cho
việc canh tác, gieo trồng. Nhân dân Việt Nam phải luôn đối phó với hạn hán và
thiên tai lũ lụt, phải chung sức đắp đê ngăn lũ bảo vệ mùa màng. Chính quá
trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và đấu tranh với
thiên nhiên bảo vệ mùa màng đã làm cho cộng đồng người Việt sớm có truyền thống
đoàn kết, cố kết cộng đồng. Truyền thống đó được phản ánh qua những câu chuyện
thần thoại như: Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; hay trong sự tích mẹ Âu Cơ …
Kế thừa và tiếp thu
truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc, Bác đã phát triển thành tư tưởng đoàn kết:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại
thành công.
- Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh còn kế thừa những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam
như: cần cù trong lao động, tiết kiệm, giản dị trong cuộc sống.
Việt Nam là nước nông nghiệp, nông dân chiếm một lực
lượng đông đảo. Người dân Việt Nam cần cù, chịu khó trong lao động, tiết kiệm
trong chi tiêu, giản dị trong lối sống… Đó là những phẩm chất quý báu của con
người Việt Nam. Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của người Việt
Nam. Nó cũng là những đức tính không thể thiếu được đối với mỗi người cách
mạng.
Có thể khẳng định, truyền thống văn hoá Việt Nam mà
nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, truyền thống cố kết dân tộc
là một trong những cơ sở nền tảng hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ
Chí Minh không chỉ kế thừa, phát huy mà còn phát triển nâng cao những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh kế thừa văn hoá đạo đức phương Đông và phương Tây
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh kế thừa văn hoá đạo đức phương Đông:
Bất kỳ một học thuyết lý
luận nào ra đời cũng trên cơ sở kế thừa những tiền đề tư tưởng lý luận của các
thế hệ trước đó. Trong kho tàng văn hoá phương Đông có hai trung tâm văn hoá
lớn là Trung Quốc và ấn Độ có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống đạo đức của con
người Việt Nam.
Kế thừa văn hoá đạo đức Nho
giáo:
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức phục vụ cho lợi ích của
giai cấp địa chủ phong kiến. Ngoài những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động,
Nho giáo cũng có những yếu tố tích cực. Nó đề cao những mệnh đề: “trung –
hiếu”; “tứ hải giai huynh đệ”; “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; nêu
phương châm “tu thân”, “khắc kỷ phục lễ”…
Hồ Chí Minh kế thừa các tư tưởng
của Nho giáo, sử dụng các khái niệm của Nho giáo. Song Bác đã làm thay đổi bản
chất nội dung của các khái niệm. Đồng thời Bác đã phê phán, loại bỏ những yếu
tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này. Người chỉ rõ: “Đạo đức cũ và đạo đức
mới khác nhau nhiều. đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chỏng lên
trời”[19]. Người đã đảo lại
thế đứng đó, như Mác - ăng ghen đã tiếp thu phép biện chứng duy tâm của Hê
ghen, và đặt lại phép biện chứng đó trên nền duy vật.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy mặt hạn
chế trong các giá trị đạo đức của Khổng Tử, của Nho giáo và đi đến một kết
luận: “Về căn bản, chủ nghĩa Khổng Tử là sự bình yên trong xã hội không bao giờ
thay đổi”[20]. Chính vì vậy Hồ
Chí Minh đã tiếp biến những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo, tạo nên
những sắc thái mới cho giá trị đạo đức ở thời đại mình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình một nhà Nho xứ Nghệ, từ nhỏ sớm được
học các triết lý đạo đức của Khổng, Mạnh, mang ảnh hưởng của phong cách nhà
Nho, được thể hiện nổi bật ở vấn đề tu thân (tu dưỡng rèn luyện bản thân), sống
hiền hoà giản dị, tự mình làm gương giáo dục cho người khác...
Kế thừa văn hoá đạo đức của
Phật giáo:
Phật giáo vào Việt Nam từ thời Đông Hán. Phật giáo là một tôn giáo lớn
có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của một bộ phận người Việt. Phật giáo vào
Việt Nam có xu hướng nhập thế. Trong lịch sử đã có nhiều tăng ni, phật tử có
đóng góp cho cách mạng, lo tốt đời đẹp đạo, cứu nước cứu dân.
Tư tưởng đạo đức của Phật giáo có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh chính là: lòng vị tha, từ bi hỷ xả, độ lượng khoan dung,
ngay thẳng chính tâm…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng hiểu rất rõ những hạn chế của
nền văn hoá gắn liền với sự tu tâm, những triết lý bất bạo động, diệt dục và
không sát sinh của Phật giáo đã tạo ra một lối sống thiếu tích cực trong việc
cải tạo xã hội. Do đó Người cho rằng: Ông Bụt ngồi ở chùa không làm hại gì,
nhưng cũng chẳng làm lợi gì cho loài người”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa văn hoá đạo đức phương
Tây:
Mặc dù Nho giáo,
Phật giáo có những mặt tích cực song nó không giúp được con người thoát khỏi
nỗi khổ, không giải phóng được con người. Vì vậy, năm 1911 Nguyễn ái Quốc đã
rời đất nước sang các nước phương Tây, Người ra đi không phải để tìm một học
thuyết đạo đức mà là để tìm con đường cứu nước, cứu dân. Sau này Người kể lại:
Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi nghe những từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái
thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng
sau những tư tưởng ấy.
Trong thời gian gần
10 năm bôn ba ở các nước tư bản như: Anh, Pháp, Mỹ và các thuộc địa của họ; qua
tài liệu sách báo và cả qua thực tế cuộc sống của dân chúng, Hồ Chí Minh nhận
thấy nhiều điều hấp dẫn:
Người tiếp thu
những tư tưởng nhân văn, nhân ái, lòng vị tha trong một số giáo lý tôn giáo.
Nhiều lần Bác nhắc đến kinh cựu ước, tân ước. Người thấy trong Cơ Đốc giáo khi
mới ra đời có tư tưởng bao dung, nhân ái, độ lượng. Nó có ý nghĩa rất lớn trong
việc giáo dục đạo đức. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: cần phải phân biệt giữa tư tưởng
nhân ái với các hành vi lợi dụng tôn giáo.
ấn tượng và những
bài học sâu sắc nhất trong quá trình đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là
được nghiên cứu, tiếp xúc tìm hiểu thực chất của chủ nghĩa nhân văn, những tư
tưởng: tự do, bình đẳng, bác ái trong các nước phương Tây. Trong thời gian ở Pháp
và Mỹ, Bác được đọc bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, bản Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Tư sản Pháp và được chứng kiến cảnh sống
của người lao động khu da đen Hác Lem. Trong khi khẳng định những giá trị chân
chính, những nhân tố tích cực, tiến bộ của Cách mạng dân chủ tư sản nhất là
những tư tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái, tư tưởng nhân văn, tư tưởng giải
phóng con người khỏi thần quyền giáo lý và sự thống trị của chế độ phong kiến.
Đồng thời Hồ Chí Minh cũng nhận thấy được những mặt trái đằng sau những khẩu
hiệu mà giai cấp Tư sản nêu ra đó là cuộc sống khổ cực của những người lao
động. Trong cuốn Đường Cách mệnh, Người viết về Cách mệnh Mỹ: “Tuy rằng cách
mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn lo tính
cách mệnh lần thứ hai. ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh
tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”[21]. Về Cách mệnh Pháp: “Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa”[22]. Người kết luận: “Cách mệnh
Việt Nam nên nhớ những điều ấy”[23].
Tiếp thu văn hoá
đạo đức phương Đông, phương Tây, Hồ Chí Minh biết kế thừa các học thuyết đó một
cách có phê phán, chọn lọc, không bao giờ sao chép máy móc, cũng không bao giờ
phủ định một cách giản đơn, mà có sự phân tích sâu sắc để tìm ra những yếu tố
tích cực, làm giầu thêm vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của mình. Người
viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo Giê su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là
phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính
sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên
chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài
người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ
họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy ”[24].
3. Hồ Chí Minh tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức
và tấm gương đạo đức mà các ông để lại
Tiếp thu chủ nghĩa
Mác – Lênin là bước ngoặt cơ bản trong sự phát triển về chất của quá trình hình
thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sở dĩ gọi đó là bước ngoặt vì học thuyết
Mác – Lênin là học thuyết về giải phóng con người, giải phóng giai cấp, nhằm
xây dựng một xã hội ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh chuyển từ lập trường
của chủ nghĩa yêu nước theo tinh thần dân tộc sang chủ nghĩa yêu nước trên lập
trường của giai cấp công nhân; chủ nghĩa yêu nước đã gắn với chủ nghĩa xã hội;
giác ngộ dân tộc đã phát triển và kết hợp giác ngộ giai cấp.
Chủ nghĩa Mác –
Lênin là thế giới quan, phương pháp luận, giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, phân
tích, đánh giá, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá đạo đức của các học
thuyết đương thời, cũng như từ những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của bản
thân để nêu ra những tư tưởng về đạo đức phù hợp với thời đại mình. Trong cuốn
Đường Cánh mệnh, khi phân tích các chủ nghĩa, các học thuyết, Người chỉ rõ:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[25]. Mặc dù tiếp thu
chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển một cách rất
sáng tạo, rất xa lạ với những gì là giáo điều kinh viện. Trong những bài nói,
bài viết của mình về đạo đức, Hồ Chí Minh trình bày rất giản dị dễ hiểu, luôn
gắn nguyên lý đạo đức với hành động, lý luận với thực tiễn, gắn các phạm trù
đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa văn hoá đạo đức Việt Nam và văn
hoá phương Đông.
Người luôn nhắc nhở
chúng ta phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài
liệu thì phải đào sâu, hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu trong
sách…Theo Người, chủ nghĩa Mác – Lênin là để phụng sự cho cách mạng, cho Tổ
quốc và nhân dân. Hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc, bất kỳ
việc to hay nhỏ đều nhằm mục đích ấy- đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa
Mác – Lênin là lý trí, mà cũng còn là tình cảm nữa “nếu thuộc bao nhiêu sách mà
sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”[26].
Đối với các lãnh tụ
của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh không chỉ ca ngợi và đánh giá cao về thiên tài
của họ, mà người còn tìm thấy ở các lãnh tụ tấm gương đạo đức sáng người, đó
là : lòng ham mê công việc, tâm hồn cao thượng, lối sống trong sạch giản
dị... Chính những phẩm chất đạo đức cao đẹp đó đã tạo ra sức hấp dẫn, làm cho
nhân dân tin và đi theo con đường cách mạng mà các lãnh tụ đã vạch ra.
4. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bổ sung,
hoàn thiện thông qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và nhân cách Hồ Chí Minh.
Nguồn gốc lý luận -
tư tưởng hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa truyền
thống văn hoá đạo đức Việt Nam và tinh hoa văn hoá đạo đức phương Đông, phương
Tây với chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài nguồn gốc lý luận, tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh còn được bổ sung hoàn thiện từ chính cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh và
từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong các nhà hoạt
động cách mạng, thật hiếm người có cuộc sống và hoạt động thực tiễn phong phú
đa dạng, gắn liền với một thời kỳ lịch sử sôi động trên nửa thế kỷ của dân tộc
và của thời đại như Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nước ở khắp các
châu lục: Âu - á - Mỹ – Phi để nghiên cứu tìm hiểu đời sống, nguyện vọng, hoạt
động đấu tranh của nhân dân các dân tộc. Người đã từng sống và lao động thực sự
như một người công nhân ở những nước tư bản để xem xét đời sống kinh tế - xã
hội của các tầng lớp nhân dân... Người đã từng làm nhiều việc, từ người công
nhân nấu bếp, quét tuyết, người thợ ảnh, nhà báo, người cán bộ quốc tế cộng
sản, người lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta… Chính từ trong hoạt động thực tiễn
phong phú sinh động đã đem lại cho Hồ Chí Minh vốn sống, kinh nghiệm, vốn hiểu
biết phong phú về nhiều mặt. Thực tiễn đó làm cơ sở để Hồ Chí Minh nhận thức và
từng bước khái quát thành tư tưởng lý luận.
Thực tiễn của cách
mạng Việt Nam và quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng đã giúp cho Hồ Chí
Minh có thêm được những kinh nghiệm bổ sung, hoàn thiện làm phong phú thêm tư
tưởng đạo đức của mình. Trong các lãnh tụ của giai cấp vô sản hiếm thấy một
lãnh tụ nào lại thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên như Hồ Chí Minh. Ngay từ khi đất nước mới giành được độc lập,
chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời, Bác đã quan tâm đến việc giáo dục đạo
đức cách mạng. Bác luôn nhắc: cán bộ phải là đầy tớ của nhân dân, chứ không
phải là những ông quan đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Trước khi đi xa Bác còn căn dặn
cán bộ, đảng viên: phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân.
Tư tưởng bao giờ
cũng là sản phẩm của con người, là mặt hoạt động tinh thần ý thức của con
người, do con người sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư
tưởng phụ thuộc vào các yếu tố của nhân cách, phẩm chất tinh thần con người đã
sản sinh ra nó. Hồ Chí Minh là một con người có một phẩm chất cá nhân hết sức
tiêu biểu. Nhân cách và phẩm chất của Hồ Chí Minh được thể hiện :
Người là một con
người sống có hoài bão, có lý tưởng yêu nước thương dân sâu sắc, nhất là đối
với những người cùng khổ bị áp bức bóc lột; có bản lĩnh kiên định, có khí tiết
kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn.
Người là một con
người đặc biệt thông minh, sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi; có tư
duy độc lập sáng tạo; có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng; biết nhiều ngoại
ngữ, do đó có điều kiện tiếp xúc với văn hoá của nhiều dân tộc.
Người là một con
người có niềm tin mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí nghị lực phi thường; có đầu óc
thực tiễn, thiết thực cụ thể, lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với
làm.
Người là một con
người mẫu mực về đạo đức cách mạng; tác phong bình dị, chân tình, khiêm tốn,
gần gũi, hoà mình với quần chúng; có sức cảm hoá lớn đối với mọi người.
Người là một bậc đại
nhân, đại trí, đại dũng.
Những tư chất và phẩm chất ấy được phát huy trong suốt
cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy mà Hồ Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu,
lý tưởng cách mạng đúng đắn và con đường để đi tới thực hiện mục tiêu lý tưởng
đó.
II.
Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và việc học tập, làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo
đức cách mạng đối với người cán bộ cách mạng
Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “Đạo đức cách
mạng”, “Đạo đức mới”. Vậy đạo đức cách mạng là gì?
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ, đạo đức mà chúng ta
xây dựng là đạo đức cách mạng: đạo đức đó tiếp thu, kế thừa truyền thống đạo
đức cổ truyền của dân tộc như: lòng yêu nước thương dân, tinh thần tương thân
tương ái… nhưng nó khác về bản chất so với đạo đức cũ: đạo đức phong kiến, đạo
đức tư sản. Đạo đức cách mạng trong đó có sự kết hợp giữa đạo đức của giai cấp
công nhân với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân
loại.
Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò quan trọng của đạo
đức cách mạng đối với người cán bộ cách mạng:
Một là:
Đạo đức cách mạng là cái “gốc”, là “nền tảng” trong nhân cách của người cán bộ
cách mạng. Điều đó có nghĩa là để làm cách mạng, trước hết người cán bộ cách
mạng phải có đạo đức cách mạng.
Sở dĩ Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của đạo đức cách
mạng như vậy vì: coi trọng đạo đức vốn là một truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc phương Đông và của dân tộc Việt Nam. Đối với người Phương Đông niềm tin
chính trị bao giờ cũng gắn liền với niềm tin đạo đức. Muốn xây dựng được lý
tưởng chính trị, trước hết phải có niềm tin đạo đức.
Người cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo có vai
trò cực kỳ quan trọng. Không có đạo đức cách mạng thì dù có tài giỏi mấy cũng
không thể lãnh đạo được quần chúng, không tập hợp, lôi cuốn được nhân dân đi
theo cách mạng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cũng như sông phải có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”[27]. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành nhiệm vụ vẻ vang”[28]. Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng đã khẳng định: theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là tiền đề kiên quyết. Nó còn là giá
trị thuộc về nhân cách của mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực
hiện lý tưởng mục tiêu của mình.
Hai là: Đạo đức cách mạng là nguồn nuôi dưỡng, là sức mạnh tinh thần to lớn,
giúp cho người cán bộ cách mạng vượt qua được những khó khăn thử thách, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Vì đạo đức là
bộ phận của thế giới quan, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, có tác dụng chỉ
đạo trực tiếp hành vi ứng xử của con người trong thực tiễn. Vì vậy việc giáo
dục, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng là một nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên của từng tổ chức, của mỗi cán bộ đảng viên. Đạo đức cách mạng không chỉ
tạo ra động lực, sức mạnh tinh thần, giúp cho mỗi người cách mạng vượt qua khó
khăn gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, mà nó còn là “chất keo” kết
dính các cá nhân trong tổ chức, nhân sức mạnh của tổ chức lên gấp bội.
Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề,
một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”[29].
Ba là: Đạo đức cách mạng còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn, sức lôi cuốn của
cán bộ, đảng viên đối với nhân dân, tạo nên sức mạnh của Đảng, sức hấp dẫn của
chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: Quần chúng
nhân dân chỉ thực sự yêu mến, kính trọng những người có đạo đức cách mạng, vì
lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc. Người còn chỉ ra rằng: “Một dân
tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[30]. Chính sức mạnh của Đảng ta, những thắng lợi của cách mạng nước ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng suốt mấy chục năm qua, luôn gắn liền với đạo đức cách mạng
của người đảng viên. Bởi thực sự họ đã nêu gương và phát huy được vai trò tiên
phong, lãnh đạo đối với quần chúng. Nhận thức được vai trò và sức mạnh của sự
nêu gương, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến tấm gương đạo đức của Lê Nin đã
thu hút các dân tộc phương Đông đến với chủ nghĩa Lênin. Người viết: “Trước con
mắt các dân tộc Phương Đông, Lênin không phải chỉ là một lãnh tụ, một người chỉ
huy. Đó cũng là một người thầy có sức hấp dẫn; tính coi thường sự xa hoa, lòng
ham mê công việc, đời sống trong sạch, sự giản dị và tâm hồn cao thượng của
Người làm cho quả tim chúng tôi hướng về Người, không gì ngăn nổi. Lòng kính
mến của chúng tôi đối với Người gần như lòng hiếu thảo, là một trong những đức
tính cơ bản ở nước chúng tôi”[31]. Và chính Hồ Chí Minh cũng là tấm gương tuyệt vời, mẫu mực của đạo đức
cách mạng, để mỗi chúng ta học tập.
Bốn là: Nhấn mạnh đạo đức, coi đạo đức là gốc, song Hồ Chí Minh không coi nhẹ
tài năng trí tuệ. Vì người cán bộ cách mạng chỉ có đạo đức cách mạng không thôi
chưa đủ, mà phải có tài năng mới hoàn thành được nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh cho rằng: phải có cái đức để đi đến với
cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách
mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đi theo. Đức và tài là hai
mặt thống nhất hữu cơ với nhau, trong đó đức là cơ sở, điều kiện cho tài năng
phát triển.
Người khẳng định: “Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho
loài người”[32]
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của người
cán bộ cách mạng
Hồ Chí Minh khi đưa ra những chuẩn mực đạo
đức, trước hết, Người nêu những chuẩn mực chung, có ý nghĩa cơ bản, phổ biến
đối với mọi người, mọi tầng lớp như: trung với Đảng, trung với nước, hiếu với
dân; cần, kiệm, liêm, chính; biết chiến thắng chủ nghĩa cá nhân ích kỷ; đoàn
kết, nhân ái; khiêm tốn, thật thà... Đồng thời Người còn đề ra những chuẩn mực
cụ thể đối với từng lớp người phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, trách nhiệm của
lớp người đó. Đối với cán bộ cách mạng (trong đó có đảng viên), tuỳ theo hoàn
cảnh, có lúc Người nhấn mạnh chuẩn mực này, có lúc chuẩn mực khác. Nhưng tóm
lại, đạo đức cách mạng của người cán bộ cách mạng là:
“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng, đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật
của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động
lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân.Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn
luôn tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác”.[33]
Để có được đạo đức cách mạng đó, người cán
bộ cách mạng phải tu dưỡng, rèn luyện các phẩm chất sau:
a. Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho
sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân
dân
Đây là phẩm chất chính trị cơ bản, giữ vị
trí quan trọng hàng đầu trong nhân cách của người cán bộ cách mạng.
Người cán bộ cách mạng phải trung thành với Đảng, trung với nước, hiếu với nhân dân. Bởi vì: họ là người đại
biểu cho lợi ích chân chính của nhân dân, là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân; là người tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Đồng thời họ còn là người tổ chức nhân
dân thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Người cán bộ cách mạng là người được giác ngộ lý tưởng cách mạng của
Đảng, nguyện suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Vì vậy, phải luôn đặt
lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân mình.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, các giai cấp
thống trị đều buộc các giai cấp bị thống trị phải tuyệt đối phục tùng, trung
thành với lợi ích của giai cấp mình. Sự trung thành trong các xã hội đó, là trung thành
một cách cưỡng ép, mù quáng. Đối với người cán bộ cách mạng, trung thành với
Đảng, trung thành với đất nước, là trung thành một cách tự nguyện, tự giác trên
cơ sở nhận thức được mục tiêu lý tưởng cao đẹp của Đảng. Tuyệt đối trung thành
với Đảng, cũng có nghĩa là trung thành với đất nước, với Tổ quốc, với nhân dân.
Vì lợi ích của Đảng, của đất nước, của dân tộc thống nhất với nhau.
Trung với Đảng,
trung với nước gồm những nội dung sau:
Người cán bộ cách mạng phải đặt lợi ích Tổ quốc lên
trên hết. Khi cần sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho sự tồn tại của quốc gia,
dân tộc.
Trung với nước đòi hỏi mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ
phục vụ Tổ quốc một cách tự nguyện tự giác. Đây chính là biểu hiện của chủ
nghĩa yêu nước chân chính.
Người cán bộ cách mạng phải gương mẫu đi đầu trong
nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, phải kiên định lập trường của giai cấp
công nhân và mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Trung với nước đòi hỏi người cán bộ cách mạng phải
nhận thức sâu sắc chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Trung thành Đảng, trung với
nước, đòi hỏi người cán bộ cách mạng phải có hiếu với nhân dân. Vì người cán bộ
cách mạng là con em của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng, che chở đùm bọc,
giúp đỡ... vì vậy phải có hiếu với nhân dân.
Hiếu với dân: là phải lấy dân làm gốc; coi dân là chủ
của đất nước; người cán bộ phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Bác nói: nước lấy dân làm gốc, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân; nếu
dân đói Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu
dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi.
Hiếu với dân là phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kính trọng và học tập
nhân dân, lấy dân làm gốc.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ cách mạng phải: nắm
vững dân tình; hiểu rõ dân tâm; thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân
sinh; nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của mình. Có
như vậy người cán bộ cách mạng mới được nhân dân quý mến, tin yêu, kính trọng.
Đối với người cán bộ cách mạng thì không chỉ là “trung
với nước hiếu với dân” là đủ, mà còn phải “tận trung với nước, tận hiếu với
dân” thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, là người đày tớ trung thành của
nhân dân.
b. Yêu thương quý trọng con người, sống có tình
nghĩa.
Yêu thương quý
trọng con người vừa là một truyền thống nhân nghĩa cao đẹp của dân tộc Việt
Nam, vừa là biểu hiện chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Hồ Chí Minh coi tình thương
yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của người cách
mạng. Tình thương yêu con người đó được thể hiện ở Hồ Chí Minh, bằng ham muốn
tột bậc của Người là làm cho nước nhà được độc lập, dân được tự do, mọi người
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Người cán bộ cách mạng, nếu không có tình thương yêu
con người thì không thể làm cách mạng được, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản. Vì người cán bộ cách mạng có lòng nhân đạo, lòng yêu
thương con người thì mới lạc quan, yêu thương cao cả với nhân loại, với nhân
dân, với đồng chí, với bạn bè của mình.
Tình thương yêu con người phải được thể hiện cụ thể:
trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người trong quan hệ hàng ngày; mỗi
người trước hết phải tự nghiêm khắc với
chính mình, đồng thời rộng rãi độ lượng với người khác; người cán bộ cách mạng
phải có thái độ tôn trọng con người, phải biết nâng đỡ con người, chứ không được
hạ thấp, càng không được vùi dập con
người.
Tình thương yêu con người của người cán bộ cách mạng
không chỉ được thể hiện trong những lúc bình thường, mà còn được thể hiện khi
người khác mắc phải sai lầm khuyết điểm, để giúp đỡ họ nhận ra những sai lầm
khuyết điểm đó và cố gắng sửa chữa, kể cả đối với những người lầm đường lạc lối
đã hối cải, với kẻ thù đã bị thất bại chịu sự quy hàng. Chính bằng tình thương
yêu đó đã đánh thức được những gì tốt đẹp trong lương tâm con người họ.
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống
Việt Nam. Người giữ lại những gì tốt đẹp, lọc bỏ những gì không phù hợp và đưa
vào những nội dung mới cho phù hợp với nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cần:
là tăng năng suất trong công tác bất kỳ là công tác gì.
Theo
Hồ Chí Minh, cần không chỉ là biểu hiện ở thái độ đối với công việc như sự cần
cù, chăm chỉ, siêng năng, miệt mài... mà cần còn biểu hiện ở tinh thần, ý thức
trách nhiệm với công việc mà mình được giao; ở việc tìm tòi học hỏi suy nghĩ
cải tiến trong công tác. Người cán bộ cách mạng phải
làm chủ được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, biết áp dụng nó vào trong công việc
của mình. Cần phải được đo bằng hiệu quả công việc, đó là hoàn thành công việc
nhanh nhất, tốt nhất với năng suất và hiệu quả cao nhất. Đối với người cán bộ
cách mạng, muốn thực hiện cần còn phải đấu tranh với thói lười biếng, qua loa
đại khái trong công việc, làm việc với hiệu quả thấp.
Kiệm: là không lãng phí thời
gian, của cải của mình và của nhân dân.
“Kiệm”
được Bác đặt ngay sau “cần”, vì “cần mà không kiệm thì làm chừng nào xào chừng
ấy” thành quả lao động bỏ ra sẽ không được bảo vệ, không được trân trọng và sử
dụng vào đúng mục đích. Bác nói về tầm quan trọng của
kiệm: “Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách tăng gia sản
xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì như gió vào nhà
trống”.[34]
Trước hết là tiết kiệm về thời gian: đối với người cán
bộ cách mạng phải sử dụng một cách có hiệu quả nhất thời gian lao động; làm
việc phải có chương trình kế hoạch, không làm theo kiểu tuỳ hứng; không tổ chức
hội họp quá nhiều mà nội dung không thiết thực gây lãng phí thời giờ của nhân
dân; không lập ra nhiều tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, với những
văn bản giấy tờ không cần thiết, gây phiền hà lãng phí thời gian của nhân dân.
Về tiết kiệm của cải vật chất, Bác chỉ rõ: “Tiết kiệm
không phải là bủn xỉn. Tiết kiệm phải kiên quyết chống xa xỉ...”[35]
Đối với mỗi cá nhân phải biết tiết kiệm trong tiêu dùng của mình và của gia
đình mình. Phải tính toán từ thu nhập chính đáng của bản thân để chi tiêu cho
các nhu cầu một cách phù hợp, không keo kiệt, nhưng cũng không đua đòi, xa hoa
lãng phí. Đối với đơn vị, cần chống lãng phí trong xây dựng cơ sở vật chất như
hội trường, nơi làm việc... theo kiểu phô trương hình thức thiếu thiết thực,
trong khi nguồn kinh phí còn hạn hẹp. Phải có chế độ quản lý, phân phối, sử
dụng tài chính, tài sản phương tiện một cách chặt chẽ. Chống lợi dụng việc phân
phối tài chính, tài sản, phương tiện để tham ô, móc ngoặc mưu lợi cho cá nhân.
Đối với cán bộ có chức quyền, không lợi dụng các phương tiện của công biến
thành của tư. Không nên tự trang bị cho mình những phương tiện đồ dùng vượt quá
định mức được nhà nước cho phép cho phép.
Liêm: là không tham ô và luôn
giữ gìn của công và của nhân dân.
Bác giải thích: “Liêm là trong sạch, không tham lam. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ
Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được, vì xa
xỉ mà sinh tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon
sống yên đều bất liêm”[36]. Người cán bộ cách mạng để thực
hiện được “liêm” phải trong sạch, không vẩn đục trong tư tưởng và hành động,
sống bằng thu nhập chính đáng trên cơ sở lao động của chính mình, không để cho
đồng tiền và dục vọng chi phối làm hại đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Để thực hành “liêm” phải đấu tranh chống tư tưởng thực dụng, chạy theo
đồng tiền bằng mọi giá, mọi thủ đoạn, bất chấp luật pháp, đạo đức, lương tâm để
tham ô của Nhà nước và của tập thể.
Chính: là việc phải làm thì dù
nhỏ cũng
làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.
Việc
phải làm là những việc đúng, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, lợi ích chính đáng của nhân dân, đạo đức của xã hội. Việc
trái, là những hành vi ngược với việc phải làm. “Chính nghĩa là không tà, nghĩa
là thẳng thắn, đúng đắn”[37]. Người cán bộ cách mạng phải
có bản lĩnh vững vàng, ủng hộ cái đúng, cái thiện, biết tôn trọng lẽ phải, đấu
tranh bảo vệ cho lẽ phải; đối với những điều ác, điều trái thì dù có lợi cho
bản thân và gia đình mình cũng không làm, không đồng tình và kiên quyết đấu
tranh; phải kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện bàng quang vô trách nhiệm,
thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh.
Chí
công vô tư: là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc. Ham làm
những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị công danh phú quý. Khi làm bất cứ
việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Chí
công vô tư là lo việc nước như chăm lo việc nhà, chăm lo việc tập thể như chăm
lo việc gia đình.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật
thiết với nhau. Cần mà không kiệm chẳng khác nào như “gió vào nhà trống”, “làm
chừng nào xào chừng ấy”, thành quả lao động không được bảo vệ, sản xuất không
phát triển. Kiệm nhằm hỗ trợ tăng thêm hiệu quả cho cần. Cần kiệm là cơ sở để
thực hiện liêm, chính. Những người liêm chính là những người biết cần kiệm.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại đã chí công vô tư,
một lòng một dạ, vì nước vì dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời về
tài, đức trước Tổ quốc và nhân dân. Những đức tính đó của Người là sự kết hợp
hài hoà giữa chân, thiện, mỹ. Biểu hiện sự nhất quán trong tâm hồn, tư tưởng,
phong cách và ngôn ngữ. Suốt cuộc đời dù ở bất cứ hoàn cảnh nào Người vẫn sống
một cuộc đời thanh bạch, giản dị, khiêm tốn, kể từ ngày sống ở Pa ri cho đến
khi ở cương vị Chủ tịch nước. Hồ Chí Minh thể hiện cái vĩ đại trong cái giản dị
bình thường, là một con người vĩ đại trong mọi cái vĩ đại.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, được Hồ Chí
Minh nêu nên bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”. Người cán bộ cách
mạng phải nhận thức rõ đoàn kết quốc tế là: Tinh thần
đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước, những người yêu hoà bình, công lý và tiến bộ trên thế giới mà Hồ Chí
Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình
và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Sự đoàn kết quốc tế ấy nhằm mục tiêu lớn của thời đại
là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước, các dân tộc. Tinh thần đoàn kết quốc tế ấy được gọi là chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền
với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và chủ
nghĩa quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô
vanh, biệt lập kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền...
Tinh thần quốc tế trong sáng vừa là phẩm chất đạo đức,
vừa là yêu cầu cần được giáo dục rèn luyện đối với mỗi người cán bộ cách mạng.
Vì vậy việc giáo dục của Đảng, việc rèn luyện của mỗi cá nhân không được coi
nhẹ vấn đề này.
3.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và học tập, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh
a.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Sinh thời Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ quan
tâm nhiều đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên, mà bản
thân Người còn là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng để chúng ta học tập
noi theo. Tấm gương đạo đức của Người thể hiện tập trung ở các điểm sau:
- Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh
thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng.
- Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức
mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
- Hồ Chí Minh đó là tấm gương của một con người nhân
ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người.
- Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Những đức tính cao cả trên, chung đúc lại trong một
con người, đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở lên cao thượng tuyệt
vời. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính cao đẹp đó trong con
người Hồ Chí Minh mà làm cho tấm gương của Người gần gũi với mỗi chúng ta, để
chúng ta học tập và làm theo.
b.
Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay
Hồ Chí Minh đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ,
cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài
sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực tuyệt vời, kết
tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán
bộ đảng viên. Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay, mỗi người cán bộ cách mạng cần cụ thể hoá nó bằng
những nội dung thiết thực, đó là:
-
Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “trung với nước, hiếu với dân”, cần
quán triệt và phát huy nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn cách
mạng mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển.
Người cán bộ cách mạng để thực hiện trung với nước,
hiếu với dân, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc những hy sinh to lớn của ông cha
ta. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc ta
đó là lương tâm và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam chân chính. Trung với
nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ,
nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn tôn
trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,
giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của nhân dân; khắc phục những
biểu hiện lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn bức xúc của nhân dân.
Trung với nước hiếu với dân ngày nay, thể hiện ở ý chí
vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn lạc hậu góp phần xây dựng đất nước phồn
vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiến kịp trình độ các nước
trong khu vực và thế giới.
Trung với nước, hiếu với dân còn thể hiện ở ý thức
luôn giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan đơn vị
mình; kiên quyết đấu tranh với những âm mưu hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc của các thế lực thù địch và những biểu hiện cục bộ bản vị địa phương.
Trung với nước, hiếu với dân là phải có tinh thần
trách nhiệm cao với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm
phấn đấu để được cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc.
Trung với nước, hiếu với dân đòi hỏi mỗi cán bộ cách
mạng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân – gia đình – tập thể –
xã hội, quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Sẵn sàng đặt lợi ích chung (tập
thể, xã hội) lên trên lợi ích riêng của cá nhân mình.
-
Thực hiện và làm theo lời dạy của Bác: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”, đồng thời nêu cao phẩm giá của con người Việt Nam trong thời kỳ đất nước
hội nhập quốc tế.
Để thực hiện lời Bác dạy “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”trong giai đoạn hiện nay mỗi người cán bộ cách mạng cần:
Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao
động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức
lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa lãng phí, phô trương
hình thức.
Thực hiện chí công, vô tư, kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân
lý, bảo vệ quan điểm đường lối của Đảng, bảo vệ người tốt; không bao che giấu
giếm khuyết điểm.
Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải
đấu tranh với mọi biểu hiện lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi
đôi với làm, nói nhiều làm ít... Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, loại trừ những biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
-
Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
Trước hết mỗi người cán bộ cách mạng phải đặt mình
trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.
Chống dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để “chia bè, kéo cánh” hất cẳng nhau,
gây mất đoàn kết trong nội bộ, trong nhân dân.
Mỗi người cán bộ phải gần dân, học dân, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và có trách nhiệm với nhân dân. Đồng thời phải biết tập hợp,
phát huy sức mạnh của nhân dân, tổ chức, động viên lãnh đạo nhân dân phấn đấu
thoát khỏi đói nghèo.
Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải luôn coi trọng tự phê
bình và phê bình để xây dựng tổ chức, hoàn thiện bản thân, xây dựng tình cảm và
quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng. Đồng thời phê phán
những biểu hiện tiêu cực từ những động cơ vụ lợi và chủ nghĩa cá nhân.
- Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mỗi cán bộ cách mạng cần phát huy
chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết hữu nghị giữa
các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
Ngày
nay trong điều kiện toàn cầu hoá, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác
cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là nguồn lực quan
trọng để xây dựng, phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực
hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần
Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn
đấu vì độc lập, hoà bình, hợp tác và phát triển.
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy
tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở
rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hoà bình, phát triển, chống chiến tranh,
đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những
vấn đề của quá khứ lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây
dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết
đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện
vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cách mạng
1. Rèn luyện bền bỉ suốt đời thông qua hoạt động
thực tiễn
Đạo đức cách mạng không phải là cái bẩm sinh có sẵn,
cũng không bỗng dưng xuất hiện, mà nó là kết quả của cả một quá trình phấn đấu
rèn luyện bền bỉ hàng ngày của mỗi con người. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[38].
Hồ Chí Minh cho
rằng: đã là con người, ai cũng có những phẩm chất tốt, có những sai lầm khuyết
điểm, nhưng nếu biết thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức, thì cái tốt sẽ
được phát huy và đẩy lùi được cái xấu. Người viết: “Mỗi người đều có tính cách
riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”[39]
“mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng”[40].
Hồ Chí Minh
cũng đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên: mỗi người phải thường xuyên chăm
lo tu dưỡng rèn luyện đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là công việc
phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, không được chủ quan tự mãn. Người thường nêu
lại tấm gương của người xưa, mỗi tối tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai
cái lọ, để hễ nhìn vào đó biết mình tốt xấu ra sao.
Trong hoạt động
thực tiễn, có những người do không chú ý rèn luyện đạo đức nên “khi kháng chiến
thì rất anh dũng, trước bom đạn không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành
thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường sa vào tội lỗi. Cho nên
bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà
mình không thấy”[41].
Vì vậy, đối với mỗi người, việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức phải được thực hiện
trong hoạt động thực tiễn, tu dưỡng và rèn luyện suốt đời.
Hiện nay, do
tác động mặt trái của thể chế kinh tế thị trường nên “tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ công chức diễn ra
nghiêm trọng”[42].
Vì vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, Đảng ta
đã chỉ rõ những phẩm chất cần có của người cán bộ đó là: “Cán bộ phải là người
có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết
lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, không dao động trước những khó khăn thử thách; có năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ
chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bố với nhân dân”[43].
2. Nói đi đôi với làm, nêu tấm
gương đạo đức
Đạo đức là một bộ
phận của thế giới quan, chi phối toàn bộ hoạt động nhận thức và hành động của
con người. Đạo đức cách mạng đòi hỏi sự thống nhất giữa động cơ và hiệu quả,
giữa lời nói và việc làm, từ đời sống chung đến đời sống riêng.
- Nói phải đi đôi với
làm:
Dân tộc Việt Nam ta có
truyền thống trọng đạo đức. Trong khi đề cao các chuẩn mực đạo đức cần có, nhân
dân ta cũng đòi hỏi nó phải được thể hiện ra trong hành vi đạo đức hàng ngày.
Nói phải đi đôi với làm.
Trước đây các học thuyết
đạo đức và tôn giáo cũng đưa ra nguyên tắc “nói đi đôi với làm”. Song trên thực
tế nó không thực hiện được như vậy. Giai cấp tư sản phương Tây để chống lại thứ
đạo đức giả dối, hà khắc của chế độ phong kiến và nhà thờ trung cổ đã gương cao
ngọn cờ nhân văn, nhân quyền, đề cao các giá trị nhân đạo, dân chủ, tự do và
những khát vọng trần thế của con người… nhưng trên thực tế xã hội tư bản còn
đầy rẫy những áp bức, bất công, giá trị nhân phẩm con người không được coi
trọng. Điều đó đã vạch trần đạo đức tư sản cũng chỉ là thứ đạo đức giả dối “nói
không đi đôi với làm”.
Hồ Chí Minh cho rằng: đạo
đức phải gắn liền với hành động, nói là để làm, nhất là nói về đạo đức phải đi
đôi với làm và phải làm một cách có hiệu quả, đó chính là thước đo về đạo đức.
Người nói: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và
lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói
suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản
xuất”[44].
Hồ Chí Minh nói nhiều đến
vai trò tác dụng của đạo đức, Người còn nêu ra những chuẩn mực đạo đức cho cán
bộ và nhân dân. Song bản thân Người còn thực hành đạo đức nhiều hơn những điều
Người nói. Người vận dụng phương thức giáo dục của người xưa: tự mình giáo dục
bằng tấm gương sống của mình đã, sau đó mới giáo dục bằng lời nói. Vì vậy cả
đời Người chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, hạnh phúc của
nhân dân. Trước khi qua đời Người còn viết trong di chúc: “Suốt đời tôi hết
lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải
từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[45].
Hiện nay, khi các hiện
tượng thương mại hoá tình người và các quan hệ xã hội có xu hướng gia tăng.
Chúng ta cần cảnh giác với căn bệnh: nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm
một nẻo, nói nhiều làm ít…Trên thương trường quảng cáo một đằng chất lượng hàng
hoá một nẻo; ở công sở một số người sống với hai nhân cách, trong cuộc họp
người ta nói rất hay về đạo đức, về tình thương yêu con người nhưng trên thực
tế họ lại hành động ngược lại…đó chính là những biểu hiện của thói đạo đức giả
cần phải lên án phê phán. Cùng với những hiện tượng suy thoái về đạo đức lối
sống của một bộ phận những cán bộ có chức, có quyền, căn bệnh nói không đi đôi
với làm, đã góp phần làm giảm sút niềm tin của nhân dân. Do vậy, cần phải giáo
dục cho cán bộ đảng viên học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đi
đôi với làm.
- Nêu tấm gương đạo
đức:
Các dân tộc phương
Đông nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng rất coi trọng đạo đức, coi trọng
việc nêu tấm gương về đạo đức. Đối với người cán bộ, đảng viên, đặc biệt ở
người lãnh đạo việc nêu gương đạo đức có vai trò cực kỳ quan trọng. Vì muốn có
niềm tin chính trị thì trước hết phải có niềm tin đạo đức, quần chúng chỉ tin
và đi theo cách mạng khi họ thấy những đại biểu của mình – những cán bộ cách
mạng là tấm gương đạo đức để họ học tập noi theo. Ngược lại, khi nhân dân đã
mất niềm tin đạo đức vào những người lãnh đạo Đảng, lãnh đạo chính quyền thì
niềm tin chính trị của họ cũng bị suy giảm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: đối
với các dân tộc phương Đông “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền”[46].
Là một nhà lãnh đạo
với trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng Hồ Chí Minh đã sớm thấy trước
được những căn bệnh của những người có chức và có quyền sẽ có thể mắc phải và
sớm chỉ ra những biện pháp để khắc phục những căn bệnh đó, trong đó Người đặt
lên hàng đầu việc thường xuyên giáo dục rèn luyện đạo đức cho cán bộ đảng viên.
Người nói: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt trước”[47].
Nhận thức được vai
trò và sức mạnh của sự nêu gương, Hồ Chí Minh thường nhắc cán bộ đảng viên học
tập tấm gương đạo đức của Lênin, đó là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu
lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị… Bản thân Người cũng suốt đời tự
tu dưỡng rèn luyện mình về đạo đức để trở thành “tấm gương tuyệt vời về con
người mới”, thành hình ảnh mẫu mực về “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”, chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hoá mãnh liệt đối với
toàn thể dân tộc mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.
Hiện nay một bộ
phận cán bộ đảng viên, kể cả một số lãnh đạo chưa thực sự là tấm gương để nhân
dân học tập noi theo. Đảng ta đã có nhiều nghị quyết yêu cầu lãnh đạo các cấp
phải nêu gương về đạo đức, lối sống, phải là người xung kích đi đầu trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, xa hoa, lãng phí. Phải thường xuyên nêu gương
“người tốt, việc tốt”, biến đó thành những phong trào thi đua sâu rộng
trong tập thể đơn vị, từng ngành, từng
địa phương và trong phạm vi cả nước.
3. Xây đi đôi với chống
Trong đời sống hàng ngày, cái tốt với cái xấu, cái cao thượng với cái thấp
hèn, cái đạo đức và cái vô đạo đức, đối lập nhau, đan xen vào nhau cùng tồn tại
trong xã hội, trong mỗi con người. Vì vậy việc xây dựng đạo đức mới, việc bồi dưỡng
những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho con người phải đi đôi với chống những biểu
hiện trái ngược với đạo đức cách mạng. Việc đấu tranh chống những biểu hiện sai
trái, lạc hậu, đi ngược lại với đạo đức cách mạng cũng là nhằm xây dựng đạo đức
mới được thuận lợi hơn, có hiệu quả hơn.
Theo Hồ Chí Minh, xây đạo đức mới cho mọi người, nhất là
cán bộ đảng viên có thể bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường khác nhau nhưng
phải phù hợp và thiết thực. Song điều quan trọng nhất là việc giáo dục những
phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức phải bắt đầu từ mỗi con người, từ từng gia
đình đến nhà trường và xã hội. Phải tạo ra một môi trường giáo dục đạo đức lành
mạnh cho sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Việc giáo dục đạo đức phải
trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ bản để cụ thể hoá, vận dụng cho phù hợp
với từng lứa tuổi, với từng giai tầng xã hội, phù hợp với đặc điểm tâm lý đối
tượng.
Việc giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở nguyên lý lý
luận mà cần đưa các chủ thể đạo đức để kiểm định đánh giá trong hoạt động thực
tiễn của họ. Chỉ có thực tiễn mới là nơi thử thách, là thước đo cao nhất bản
lĩnh, lòng trung thành phẩm chất đạo đức của các cá nhân.
Vấn đề quan trọng nhất trong việc giáo dục và thực hành
đạo đức không phải chỉ là sự tiếp nhận của các chủ thể, mà là quá trình tự giáo
dục, tự trau dồi của các chủ thể về phẩm chất đạo đức. Tức là phải biết khơi
dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi con người, để ai cũng có thể tư giác
nhận thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với người khác, với gia đình,
cộng đồng, xã hội.
Trong khi xây dựng, bồi
dưỡng những phẩm chất đạo đức mới phải đồng thời chống lại cái xấu, cái sai,
cái vô đạo đức…Điều quan trọng là, phải phát hiện sớm, hướng cho mọi người vào
cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Hơn nữa còn phải
thấy trước những gì có thể xảy ra để phòng tránh, hạn chế, ngăn chặn.
Hồ Chí Minh cho
rằng, tham nhũng, lãng phí là hậu quả của việc thiếu rèn luyện, thiếu trau dồi
đạo đức cách mạng, là sự suy thoái đạo đức cách mạng. Do vậy việc nâng cao đạo
đức cách mạng sẽ đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân và do đó mà đẩy lùi tệ quan liêu,
tham nhũng, tệ bè phái, cục bộ bản vị địa phương chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh,
để nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục nguyên nhân sinh ra bệnh quan liêu, tệ
tham ô, lãng phí, chúng ta cần làm bằng được những việc sau:
1. Các sự hy sinh
khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng, thanh nhàn thì mình
nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc).
2. Các việc đáng
làm thì khó mấy cũng quyết làm cho kỳ được.
3. Ham làm những
việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý.
4. Đem lòng chí
công, vô tư mà đối với người, đối với việc.
4. Quyết tâm làm
gương về mọi mặt, siêng năng, tiết kiệm, trong sạch
5. Chớ kiêu ngạo tự mãn, tư túc, nên nói ít làm
nhiều, thân ái, đoàn kết.
Đặc biệt trong quá
trình phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập kinh tế quốc tế, những việc trên cần được quan tâm đúng mức. Chỉ có như
vậy chúng ta mới góp phần đẩy lùi một cách có hiệu quả tình trạng suy thoái tư
tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên để xây
dựng Đảng, Nhà nước trọng sạch, củng cố niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Chương
V
đạo đức người công an cách mạng
và vấn đề rèn luyện đạo đức người công an trong điều kiện hiện nay
I. Tính tất yếu của việc rèn luyện phẩm chất đạo
đức đối với người công an nhân dân
1. Phẩm chất đạo đức giữ vị trí quan trọng hàng
đầu trong nhân cách người công an nhân dân
Nhân cách của người công an nhân
dân là một chỉnh thể gồm toàn bộ những phẩm chất và năng lực cần phải có và đòi
hỏi phải có, để người cán bộ công an hoàn thành nhiệm vụ của mình, đó là: phẩm
chất chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực hoạt động chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực hiểu biết và vận dụng pháp luật, năng lực hiểu biết về xã hội, về khoa
học công nghệ….
Là một trong
những yếu tố tạo nên nhân cách, song phẩm chất đạo đức giữ vị trí quan trọng
hàng đầu trong nhân cách người công an nhân dân. Bởi vì:
Thứ nhất: Phẩm chất
đạo đức được coi là “gốc”, là “nền tảng” để hình thành lên nhân cách của người
cách mạng, đối với người công an nhân dân phẩm chất đạo đức còn là điều kiện
tiên quyết để hoàn thành những nhiệm vụ được giao.
Thứ hai: Công an của
ta khác về bản chất so với công an trong các nhà nước của giai cấp bóc lột - đó
là công an nhân dân. Công an nhân dân vừa là công cụ chuyên chính trọng yếu,
thể hiện quyền lực của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa; vừa là lực lượng thực thi pháp luật, để bảo vệ những quyền lợi chính
đáng và hợp pháp của nhân dân. Vì vậy, để xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng,
Nhà nước và nhân dân, đòi hỏi mỗi cán bộ chiến sỹ công an phải là tấm gương
sáng về đạo đức cách mạng để hoàn thành được những nhiệm vụ của mình và bảo vệ
được những lợi ích chính đáng của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã từng
chỉ rõ: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ
trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân
dân. Từ Chủ Tịch nước đến giao thông viên cũng vậy nếu không làm được việc cho
dân, thì dân không cần đến nữa…. Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là
người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho
tốt”[48].
Vì vậy Người đòi hỏi: “Mỗi cán bộ công
an phải cố gắng, gương mẫu trong học tập, trong công tác, gương mẫu về đạo đức
cách mạng”[49]
Thực tiễn công tác xây dựng lực lượng công an
nhân dân cũng đã cho thấy đa số cán bộ chiến sĩ có phẩm chất đạo đức tốt, có
lập trường tư tưởng vững vàng, trung thành với Đảng, Nhà nước, tận tuỵ phục vụ
nhân dân, đã xuất hiện nhiều tấm gương dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu và
công tác, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình vì nhiệm vụ. Công an nhân dân
thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc
gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên vẫn còn “một bộ phận cán bộ
đảng viên, chiến sĩ công an, trong đó có cả một số cán bộ cấp cao thoái hoá,
biến chất, lợi dụng chức vụ quyền hạn có hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, ức hiếp
quần chúng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào lực lượng Công an nhân dân.”[50].
2. Xuất phát từ đặc điểm, tính chất
công tác và nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho lực lượng Công an nhân dân
Công an nhân dân được giao nhiệm vụ bảo
vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân
dân. Đây là nhiệm vụ nặng nề, vô cùng quan trọng song cũng rất vẻ vang. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng và Chính phủ tin vào lòng tuyệt đối trung
thành và chí kiên cường phấn đấu của các đồng chí. Toàn thể cán bộ và chiến sĩ công
an phải cố gắng vượt qua khó khăn, làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang
của công an cách mạng, xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân, của Đảng và
Chính phủ đối với các đồng chí”[51].
Vì vậy đòi hỏi mỗi cán bộ công an phải nhận thức, ý thức một cách tự giác,
tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân
dân.
Đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định: Đảng
giao cho Công an nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Công an phải thấy Đảng giao vận mệnh của
Đảng cho mình. Vì vậy Đảng chọn Công an trong những người trung thành nhất với
Đảng, chỉ biết còn Đảng thì còn mình.
Lực lượng Công an nhân dân vinh dự được Đảng
và Nhà nước tuyệt đối tin tưởng giao nhiệm vụ bảo vệ những bí mật của quốc gia
(về kinh tế, về an ninh quốc phòng...) những bí mật này có liên quan đến vận
mệnh của đất nước và sự phát triển của chế độ xã hội. Do đó đòi hỏi người cán
bộ công an phải rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân trong bất kỳ tình
huống nào.
Hoạt động chiến đấu của lực lượng Công
an nhân dân đòi hỏi tính hiệp đồng cao, có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều lực
lượng, nhiều biện pháp nghiệp vụ. Song hoạt động của từng cán bộ chiến sĩ lại
riêng lẻ, đơn tuyến để điều tra nắm bắt những di biến động của đối tượng. Do
hoạt động riêng lẻ, đơn tuyến như vậy nên dễ bị bọn tội phạm tấn công mua
chuộc. Vì vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đòi hỏi mỗi cán bộ chiến
sỹ không chỉ tinh thông về nghiệp vụ, mà còn phải rèn luyện tính tổ chức kỷ luật
cao, thường xuyên tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức.
Công việc hàng ngày của cán bộ công an liên
quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân, đến sinh mệnh chính trị, đến tính
mạng và tài sản của người dân. Đối tượng tiếp xúc thường xuyên của Công an nhân
dân là nhân dân, là những người lao động. Do vậy đòi hỏi người cán bộ công an
không chỉ có quan điểm quần chúng đúng đắn, mà còn phải có tư thế lễ tiết tác
phong đúng mực, gần gũi với nhân dân, có như vậy mới được dân tin, dân yêu, dân
mến, mới thực sự trở thành người “đày tớ” trung thành của nhân dân.
Đối tượng đấu tranh của lực lượng Công an nhân
dân là bọn phản cách mạng, bọn tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội và
những mặt trái của xã hội. Chúng bằng trăm phương ngàn kế tìm mọi cách tấn công
mua chuộc. Vì vậy người cán bộ công an phải thường xuyên rèn luyện về phẩm chất
đạo đức, bản lĩnh chính trị để có thể tạo ra cho mình được những “kháng thể”
cần thiết sẵn sàng đối phó trước những âm mưu, thủ đoạn tấn công mua chuộc của
kẻ thù.
3.
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia
và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn cách mạng mới
Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia
và giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở nước ta đang diễn ra trong bối cảnh hết sức
phức tạp. Đó là:
Diễn biến tình hình thế giới những năm
qua luôn biến động phức tạp. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly
khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và
tài nguyên thiên nhiên vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng
phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt.
Khu vực Châu á- Thái Bình Dương nói
chung và Đông Nam á nói riêng, xu thế hoà bình hợp tác và phát triển tiếp tục
gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn nhưng nhân tố gây mất ổn định.
Trong thời gian tới các thế lực thù địch
vẫn quyết liệt đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn, lật đổ
nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chúng sẽ tăng cường hoạt động tình báo gián điệp; triệt để lợi dụng các vấn đề
dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… kích động, hỗ trợ các phần tử chống
Đảng, chống chế độ, hình thành tổ chức chính trị đối lập nhằm gây mất ổn định
chính trị - xã hội, tạo cớ can thiệp từ bên ngoài, không loại trừ khả năng can
thiệp bằng vũ trang để chống phá ta.
Mặt khác, bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với tốc độ nhanh, trình
độ ngày càng cao, tác động sâu sắc đến sự phát triển của các quốc gia, dân tộc
trên thế giới, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh
những vận hội lớn do sự phát triển của khoa học công nghệ đem lại, các thế lực
thù địch cũng triệt để lợi dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công
nghệ để chống phá ta quyết liệt.
Trong nước, qua hơn 20 năm đổi mới, thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập và
phát triển, mọi mặt của đời sống xã hội được khởi sắc. Song những yếu tố đe doạ
đến ổn định chính trị- xã hội ở trong nước vẫn chưa bị đẩy lùi, có nơi có lúc
còn diễn biến rất phức tạp. Các đối tượng phản động, chống đối ở trong nước,
nhất là số đối tượng cơ hội chính trị, sẽ tiếp tục tìm mọi cách hình thành tổ
chức chính trị đối lập, câu kết với các thế lực thù địch ở bên ngoài để chống
phá ta. Khả năng biểu tình, gây rối, bạo loạn chính trị ở một số vùng vẫn tiềm
ẩn. Những khuyết điểm yếu kém trong công tác xây dựng Đảng; xây dựng hệ thống
chính trị; nạn tham nhũng tiêu cực; sự xuất hiện của những loại tội phạm mới và
hoạt động của bọn tội phạm có tổ chức, cùng những mặt trái của kinh tế thị
trường, của toàn cầu hoá, đô thị hoá và công nghiệp hoá… có thể đe doạ đến an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật
tự ở nước ta đang đứng trước những thách
thức mới, đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân nói chung và từng cán bộ chiến sĩ
công an nói riêng phải có bản lĩnh vững vàng, kiên định về lập trường quan điểm
giai cấp; đồng thời thường xuyên tu dưỡng rèn luyện về đạo đức; học tập nâng
cao hiểu biết tiếp thu những tri thức về khoa học kỹ thuật để đáp ứng được
những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
4. Xuất phát từ thực tiễn kinh nghiệm
và yêu cầu xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ
và từng bước hiện đại
Lực lượng Công an nhân dân từ khi thành
lập đến nay luôn được sự quan tâm giáo dục của Đảng và Bác Hồ. Mỗi cán bộ chiến
sỹ công an luôn ý thức được vinh dự và trách nhiệm của mình trước Đảng, trước
nhân dân, thường xuyên rèn luyện về phẩm
chất đạo đức, phẩm chất chính trị nên mặc dù trong những điều kiện hoàn cảnh
khó khăn ác liệt vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, mặc dù điều kiện sinh hoạt vật
chất của nhiều cán bộ chiến sỹ còn gặp khó khăn, những tiêu cực từ mặt trái của
kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ tác động, kẻ thù và bọn tội phạm tìm mọi
cách tấn công mua chuộc. Nhưng đại bộ phận cán bộ chiến sỹ công an nhân dân vẫn
giữ được lối sống lành mạnh trong sạch, có phẩm chất đạo đức trong sáng, đã
xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tận tụy với công việc, bám bản, bám làng
được nhân dân tin yêu kính phục, nhiều tấm gương dũng cảm hy sinh quên mình vì
cuộc sống bình yên của nhân dân tô thắm lá cờ truyền thống của lực lượng của
Công an nhân dân Việt Nam.
Thực tế công tác xây dựng lực lượng Công
an nhân dân trong những năm qua cho thấy công tác giáo dục chính trị tư tưởng;
công tác quản lý cán bộ chiến sỹ có vị trí hết sức quan trọng. ở đơn vị nào,
lãnh đạo và cấp uỷ coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; công tác
quản lý cán bộ chiến sỹ thì tỷ lệ cán bộ chiến sỹ sai phạm ít và ngược lại.
Những năm gần đây tỷ lệ cán bộ chiến sỹ
sai phạm về phẩm chất đạo đức cao trên, dưới 1%... Những sai phạm đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín của lực lượng công an trước nhân dân. Do tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường, một số cán bộ chiến sỹ không chịu thường xuyên
tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức nên bị sa ngã bởi những “viên đạn bọc
đường”.
Trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới, giai đoạn: “ Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
đã chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng lực lượng Công an trong giai đoạn cách mạng mới là:
“Xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là
lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến…” [52]
Muốn xây dựng được lực lượng Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thì từng cán bộ
chiến sỹ phải chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự trong giai đoạn mới đòi hỏi
mỗi cán bộ chiến sỹ cần phải tu dưỡng và rèn luyện những phẩm chất sau:
- Tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhà nước và với nhân dân.
- Quý
trọng và hết lòng phục vụ nhân dân.
-
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
-
Khiêm tốn, có lối sống lành mạnh, giản dị.
- Có
tinh thần và ý thức tổ chức kỷ luật cao.
- Có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ
cao.
- Tận tuỵ với công việc
- Mưu trí dũng cảm, có tinh thần tiến công tội
phạm.
Trong đó phải đặc
biệt coi trọng việc giáo dục rèn luyện về phẩm chất đạo đức, nâng cao bản lĩnh
chính trị, rèn luyện ý chí chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công và kỷ luật
chặt chẽ của lực lượng Công an nhân dân đối với mỗi cán bộ chiến sỹ công an.
II. Những phẩm chất đạo đức cơ
bản của người công an nhân dân theo sáu điều Bác dạy về Tư cách người công an
cách mạng
1. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của sáu điều Bác Hồ dạy về Tư cách của
người công an cách mạng
a. Hoàn cảnh ra đời của sáu điều Bác dạy về Tư cách
người công an cách mạng
Ngày
19-8-1945 Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân cách mạng được
thành lập trên cả nước. Chính quyền non trẻ ra đời, cùng một lúc chúng ta phải
đối phó với thù trong, giặc ngoài đang dã tâm thực hiện âm mưu xâm lược, tình
thế cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”.
Lực lượng Công an nhân dân ra
đời ngày19-8-1945 là một tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi bảo vệ
thành quả Cách mạng tháng Tám và chính quyền nhân dân non trẻ mới ra đời. Mặc
dù mới được thành lập, nhưng lực lượng công an đã góp phần cùng toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân mưu trí, dũng cảm vừa giữ vững an ninh trật tự, vừa tham gia
chiến đấu trong những ngày toàn quốc kháng chiến.
Ngay sau khi thành lập, lực
lượng công an đã bắt tay ngay vào chấn chỉnh, củng cố tăng cường về tổ chức,
làm trong sạch nội bộ. Cuối tháng 11-1946 theo chủ trương của Đảng, lực lượng
công an được chấn chỉnh và củng cố về tổ chức, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng
chiến lâu dài. Nhiều cán bộ, đảng viên đã được bổ sung cho lực lượng công an
nhân dân. Để làm trong sạch nội bộ, một số người trung gian hoặc có liên quan
đến vấn đề chính trị được chuyển dần ra khỏi lực lượng. Một số đơn vị cảnh sát
làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự xã hội ở các địa phương đã được thành lập và hoạt
động công khai. Tháng1-1947 Nha công an trung ương đã ra quyết nghị A00092 về
chương trình hoạt động của bộ máy công an nhằm bố trí lực lượng phù hợp với yêu
cầu tình hình mới. Tháng 3-1947 Nghị định 36-NV quy định về việc thành lập quận
công an được ban hành, cũng trong thời gian này ở Nam bộ, Công an xưởng đầu
tiên được thành lập.
Tết nguyên đán năm Mậu Tý
(1948) ở chiến khu Việt Bắc cũng như mọi nơi trong cả nước, quân và dân ta đón
xuân trong không khí chiến thắng lẫy lừng, phá tan cuộc tấn công mùa đông của
giặc Pháp, đập tan âm mưu điên cuồng của địch muốn nhanh chóng kết thúc chiến
tranh xâm lược. Các lực lượng công an đã góp phần xứng đáng vào trong thắng lợi
đó. Công an khu 12 ra tờ báo xuân lấy tên “Bạn dân”. Đồng chí Hoàng Mai giám
đốc công an khu, gửi biếu Bác tờ báo xuân và một thư báo cáo thành tích, ưu
khuyết điểm của đơn vị mình. Bác rất vui, đọc hết các bài và sau đó gửi đồng
chí Hoàng Mai bức thư đề ngày 11-3-1948. Nội dung bức thư Bác khẳng định rõ:
bản chất của công an của ta là: công- an- nhân- dân; sức mạnh của công an có
được là dựa vào nhân dân; đồng thời Bác căn dặn anh em công an phải luôn nhắc nhở rèn luyện tư cách, đạo đức. Tư cách người công an cách mạng
là:
Đối với tự mình, phải cần kiệm liêm chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
Đối với chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tuỵ.
Đối với địch,
phải cương quyết, khôn khéo.
Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà người công
an cách mạng phải có, phải giữ cho đúng.
b. ý nghĩa của việc học tập, rèn luyện theo sáu điều
Bác dạy về Tư cách người công an cách mạng
Sáu điều Bác dạy về Tư cách đạo đức người công an cách
mạng ra đời trong hoàn cảnh lực lượng công an mới ra đời còn rất non trẻ, còn
đang trong quá trình tổ chức củng cố xây dựng lực lượng, do đó nó có một ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nó chính là kim chỉ nam, là phương hướng cho việc xây
dựng lực lượng công an nhân dân lúc bấy giờ. Nhiều đồng chí lão thành công an
đã khẳng định: Các điều dạy của Bác ra đời lúc bấy giờ như người đi đêm có được
bó đuốc soi đường- bó đuốc đó chính là đường lối xây dựng lực lượng công an
nhân dân.
Hiện nay chúng
ta đang thực hiện một thể chế kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường ngoài những mặt tích cực, thì những ảnh hưởng
tiêu cực do nó gây ra đang hàng ngày hàng giờ tác động đến đời sống xã hội nói
chung, đến cuộc sống của mỗi cán bộ chiến sỹ công an nói riêng. Mặt khác bọn
tội phạm và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để tấn công mua chuộc làm sa
ngã, biến chất một số cán bộ chiến sỹ công an. Vì vậy việc học tập tu dưỡng rèn
luyện theo sáu điều Bác Hồ dạy trong lúc này càng có ý nghĩa quan trọng và cần
thiết hơn bao giờ hết.
ở bất kỳ thời
kỳ nào, Sáu điều Bác dạy cũng là nội dung quan trọng nhất trong công tác chính
trị tư tưởng của lực lượng công an nhân dân nói riêng và của công tác xây dựng
lực lượng công an nhân dân nói chung. Việc quán triệt, thực hiện sáu điều Bác
dạy càng đi vào chiều sâu, càng khẳng định giá trị thiết thực của nó trong việc
xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại.
2. Nội dung cơ bản của sáu điều
Bác dạy về Tư cách người công an cách mạng
a. Những tư
tưởng cơ bản thể hiện trong sáu điều Bác dạy về Tư cách người công an cách mạng
- Tư tưởng xuất phát từ con người, coi trọng con
người, coi con người là nhân tố quyết định cho sự thành bại của công việc. Đây
là một tư tưởng lớn của Bác xuyên suốt trong quá trình giáo dục, rèn luyện lực
lượng công an nhân dân.
Là một nhà tư tưởng lớn, Hồ Chí Minh đã kế thừa tiếp
thu có chọn lọc cách tiếp cận của triết lý phương Đông. Tư tưởng coi trọng con
người được thể hiện rõ trong quá trình giáo dục, rèn luyện lực lượng Công an
nhân dân. Trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Bác không nêu ra những yêu
cầu, nhiệm vụ chung cho toàn lực lượng để rèn luyện phấn đấu, mà điều Bác đặc
biệt quan tâm nhấn mạnh là mỗi cán bộ chiến sỹ phải rèn luyện về phẩm chất đạo
đức, về nhân cách như thế nào để có thể đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ của
cách mạng. Vì vậy không phải là ngẫu nhiên khi đưa ra các điều dạy Bác lấy tên
đề là: “Tư cách người công an cách mạng”- có nghĩa là nhân cách của từng người
cán bộ chiến sỹ công an. Người từng chỉ rõ: “Đối với nhân dân, đối với Đảng,
với chủ nghĩa xã hội, trách nhiệm của công an rất lớn rất nặng nề. Cho nên phải
xây dựng một bộ máy công an rất tốt, rất chắc chắn. Ai phải xây dựng? Mỗi một cán bộ công an đều có trách nhiệm vào
đấy. Ai cũng tiến bộ, cũng khắc phục được khuyết điểm, phát huy được ưu điểm
thì toàn bộ máy công an sẽ tốt. Điều đó thật rõ ràng, dễ hiểu cho nên mỗi cán
bộ công an phải cố gắng gương mẫu trong học tập, trong công tác, gương mẫu về
đạo đức cách mạng”[53]
Coi trọng con
người, xuất phát từ con người, coi con người là yếu tố quyết định còn thể hiện
một cách nhìn biện chứng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò nhân tố
con người.
Trên nền tảng tư tưởng xem xét về con người, Hồ Chí Minh khẳng định: “ Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc… công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”[54].
Người
cán bộ cách mạng khác với người dân bình thường ở chỗ họ đại biểu cho lợi ích
của nhân dân, vì vậy phải đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi
ích của bản thân mình, “phải lo trước thiên hạ hưởng sau thiên hạ”. Người căn
dặn: “Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền không phải là làm quan cách mạng, ăn trên
ngồi trốc. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất
đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”[55] Vì vậy: Bác đòi
hỏi: “Cán bộ phải gương mẫu, chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, hết lòng vì
dân… luôn luôn rèn luyện lập trường tư tưởng và đạo đức cách mạng.”[56]
- Sáu điều Bác dạy
về Tư cách người công an cách mạng là sự kết hợp một cách tài tình trong việc
giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái chung là những chuẩn mực đạo đức của
người cách mạng với cái riêng là những phẩm chất đạo đức của người cán bộ chiến sỹ công an.
Sáu điều dạy của Bác về Tư cách người công an
cách mạng thể hiện cách giải quyết khoa học mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, vừa phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc
những chuẩn mực đạo đức chung của người cáh mạng, đó là: Trung với nước, hiếu
với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thương yêu quý trọng con
người; có tinh thần quốc tế trong sáng… đồng thời vừa vận dụng sáng tạo để đưa
ra yêu cầu rèn luyện phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị cho phù hợp với
người cán bộ chiến sỹ công an. Ví như đối với người cán bộ cách mạng phải trung
với nước, trung với Đảng... nhưng đối với người công an nhân dân Bác đòi hỏi
“Đối với chính phủ phải tuyệt đối trung thành”. Lòng trung thành tuyệt đối đó
không chỉ được thể hiện trong nhận thức mà cả trong hành động.
- Sáu
điều dạy của Bác về tư cách người công an cách mạng còn là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa các giá trị đạo đức phương Đông, phương Tây và truyền thống đạo đức
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Sáu điều dạy của
Bác về Tư cách người công an cách mạng thể hiện sự kế thừa một cách có chọn lọc
các giá trị đạo đức phương Đông, phương Tây và truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Các điều dạy của Bác thể hiện ra theo cách ứng xử của người
phương Đông: trước hết là đối với mình, sau đó là đối với người, và cuối cùng
là đối với công việc. Bác còn kế thừa những hạt nhân hợp lý về tư tưởng tu thân
- tức là sự tu dưỡng rèn luyện đạo đức của bản thân - của Nho giáo trong quá
trình giáo dục nhân cách của người công an nhân dân. Vì vậy không phải ngẫu
nhiên mà Bác đặt việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của bản thân lên hàng đầu
trong các chuẩn mực của người công an cách mạng. Phương châm xử thế :“ Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” mang đậm chất phương Đông được Bác xử lý rất khéo léo tài tình
khi đưa vào điều dạy “Đối với địch phải: cương quyết khôn khéo”…Sáu điều dạy
của Bác còn thể hiện một cách đầy đủ và sâu sắc những giá trị đạo đức nhân văn,
nhân ái phương Tây và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đó là
các truyền thống: yêu nước; cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất; đoàn kết,
yêu thương quý trọng con người… Những giá trị đạo đức phương Đông, phương Tây
được hoà quyện với những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đã làm nổi bật
những đức tính tốt đẹp của người cán bộ công an nhân dân.
- Sáu điều dạy của Bác về Tư cách người công an
cách mạng còn là sự kết hợp một cách khéo léo giữa một sự khái quát cao ở tầm
nội dung tư tưởng với một cách thể hiện rất giản dị, đời thường dễ hiểu như
những quan hệ ứng xử hàng ngày giữa con
người với con người, giữa con người với công việc.
Các từ ngữ được đưa vào trong các điều dạy được Bác chắt lọc, gọt dũa,
ngắn gọn nhưng súc tích. Mỗi một từ ngữ được sử dụng trong các lời dạy, trong
đó đã hàm chứa những nội dung tư tưởng rất sâu sắc về quan điểm chỉ đạo của Bác
trong việc giáo dục rèn luyện lực lượng công an. Nhưng những điều dạy đó lại
được thể hiện ra rất cụ thể, giản dị, đời thường, không đòi hỏi phải những
người có kiến thức sâu, hiểu biết rộng mới nhận thức được mà thậm chí những
người mới vào ngành công an hoặc người dân bình thường cũng có thể hiểu, nhận
thức và thực hiện được.
- Sáu lời dạy của Bác về Tư cách người công an
cách mạng còn là một chỉnh thể thống nhất giữa “Đức” và “Tài” trong nhân cách
của người công an cách mạng. Trong đó “Đức” là gốc, là nền tảng
của người công an cách mạng.
“Đức” và “Tài” là những yếu tố tạo nên nhân cách của
người công an cách mạng. Hồ Chí Minh xem “Đức” và “Tài” trong mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại lẫn nhau. Không có “Đức” và “Tài” tồn tại thuần tuý tách
rời nhau, mà chúng là điều kiện cho nhau, do vậy nếu thiếu đi một trong hai cái
đó thì nhân cách con người sẽ không thể hoàn thiện được. Tuy nhiên: Bác không
đặt “Đức”, “Tài” ngang nhau mà trong đó “Đức” là gốc là nền tảng của người cách
mạng. Người chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã
hội chủ nghĩa, tức là phải có những con người có đạo đức xã hội chủ nghĩa”[57].
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[58].
Trong điều dạy về “Đức”- “Đối với tự mình phải: cần, kiệm, liêm chính”, được
Bác đặt lên đầu tiên. Và lời dạy về “Tài”- “Đối với địch phải cương quyết, khôn
khéo”, thể hiện tài năng, năng lực, sự mưu trí sáng tạo, tinh thần tấn công tội
phạm của người cán bộ chiến sỹ công an - được Bác đặt sau cùng. Bởi vì: có rèn
luyện về phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thì mới có quan
điểm quần chúng đúng đắn, mới tận tuỵ với công việc, mới cương quyết và khôn
khéo trong đấu tranh với kẻ thù.
- Sáu điều Bác
dạy về Tư cách người công an cách mạng vừa là những yêu cầu cần và đủ về những
phẩm chất trong nhân cách của người công an cách mạng, đồng thời vừa là những
định hướng chung cho việc xây dựng lực lượng công an nhân dân.
Sáu điều dạy của Bác không
chỉ đưa ra những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị và những yêu
cầu về năng lực công tác cần có của người cán bộ chiến sỹ công an, mà còn
gợi ý cho chúng ta những định hướng lớn
trong việc xây dựng lực lượng công an
nhân dân, đó là: việc xây dựng lực lượng công an phải bắt đầu từ việc xây dựng
nhân cách cho từng cán bộ chiến sỹ công an, việc xây dựng nhân cách người công
an nhân dân cần đặt rèn luyện về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị lên hàng
đầu .
b. Nội dung khoa học cụ thể của từng điều Bác
dạy
Điều dạy thứ nhất:
“Đối với tự mình phải: cần, kiệm, liêm, chính”.
Cần, kiệm, liêm, chính đây
là bốn đức cơ bản tạo nên phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Đối với người
công an nhân dân không phải ngẫu nhiên Bác sắp đặt điều dạy này ở vị trí đầu
tiên. Bởi vì các dân tộc phương Đông rất coi trọng đạo đức, đối với họ niềm tin
chính trị bao giờ cũng gắn liền với niềm tin đạo đức, có được niềm tin đạo đức
thì mới có niềm tin chính trị. Người công an nhân dân muốn được dân tin, dân
yêu, và đồng tình ủng hộ thì trước hết phải
là tấm gương về đạo đức cách mạng để nhân dân noi theo.
Mặt khác, việc sắp đặt điều dạy phẩm chất đạo
đức lên đầu tiên còn thể hiện Bác rất coi
trọng việc tự tu dưỡng rèn luyện phẩm
chất đạo đức. Người chỉ rõ: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng.
Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính.”[59]
- “Cần”: Đối với người cán bộ chiến sỹ công an phải được đo bằng hiệu
quả trong công việc. Đối với những cán bộ công an thường xuyên làm nhiệm vụ
tiếp xúc với nhân dân, phải suy nghĩ tìm tòi cải tiến trong công tác, giải
quyết nhanh nhất những yêu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đối với
những cán bộ làm công tác điều tra tội phạm, “cần” phải được đo bằng kết quả
công tác điều tra khám phá các vụ việc nhanh nhất, đem lại cuộc sống bình yên
cho nhân dân. Đối với những cán bộ làm công tác tham mưu phục vụ, thực hiện
điều “cần”, có nghĩa là công việc của mình phải phục vụ được tốt nhất cho yêu
cầu chiến đấu và xây dựng lực lượng. Bác
dạy: lười biếng là kẻ địch của chữ cần. Vì vậy để thực hiện được “cần” phải đấu
tranh chống mọi biểu hiện của lười biếng.
Đối với sinh viên: “Cần” là
phải xác định cho mình động cơ thái độ học tập đúng đắn, có phương pháp học tập
khoa học; luôn khao khát được cập nhật những tri thức khoa học mới nhất, hiện
đại nhất; nắm vững tri thức khoa học và bước đầu biết vận dụng những tri thức
đó để giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra. Chống những biểu hiện
lười nhác, trung bình chủ nghĩa trong học tập và rèn luyện.
-“Kiệm”: Đối với mỗi cán bộ chiến sỹ công an cần quán triệt, phải sử
dụng một cách có hiệu quả nhất thời gian lao động, không đi muộn về sớm “ngồi
chơi xơi nước” trong giờ làm việc. Đối với cán bộ làm công tác điều tra tội
phạm phải vượt qua mọi khó khăn thử thách, tận dụng mọi thời gian để nhanh
chóng làm sáng tỏ vụ việc. Đối với cán bộ làm công tác tiếp xúc với nhân dân
phải cải cách thủ tục hành chính, không đặt ra những thủ tục giấy tờ không cần
thiết gây phiền hà và lãng phí thời gian của cán bộ và nhân dân.
Đối với sinh viên phải biết tranh thủ, tận
dụng mọi thời gian có thể có được trong nhà trường để học tập tích luỹ nâng cao
kiến thức; rèn luyện thể chất, tính tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức, lễ tiết
tác phong của người sinh viên công an nhân dân.
Về tiết kiệm của cải vật
chất, phải chống việc lợi dụng xây trụ sở làm việc, hội trường của các cơ quan
công an để để móc ngoặc tham ô tiền bạc của nhà nước và của tập thể. Lực lượng
Công an nhân dân được nhà nước bao cấp phục vụ cho công tác chiến đấu, vì vậy
phải chống lợi dụng việc phân phối tài chính, tài sản, phương tiện để móc ngoặc
mưu lợi cho cá nhân; phải giữ gìn bảo vệ và sử dụng hợp lý những phương tiện
phục vụ cho công việc và cho chiến đấu. Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo
phải có sự tính toán hợp lý. Không sử dụng mật quỹ sai nguyên tắc, chế độ.
Đối với sinh viên trong nhà trường, phải biết
tiết kiệm trong chi tiêu quý trọng những đồng tiền do mồ hôi nước mắt cha mẹ
làm ra, không đua đòi ăn chơi lãng phí. Phải biết tôn trọng bảo vệ và
giữ gìn của công. Không làm hư hỏng các phương tiện đồ dùng phục vụ cho học
tập, sinh hoạt.
-“Liêm”: người cán bộ chiến
sỹ công an để thực hiện “liêm” phải trong sạch không vẩn đục trong tư tưởng và
trong hành động; sống bằng thu nhập chính đáng trên cơ sở lao động của chính
mình, không để cho đồng tiền và dục vọng chi phối làm hại đến lợi ích của nhà
nước và của nhân dân. Một số cán bộ chiến sỹ công an do không thực hiện đúng
điều “liêm”, không giữ được phẩm chất của mình đã để cho bọn tội phạm lợi dụng
tấn công mua chuộc bằng tiền, bằng gái đẹp, bảo kê cho những hoạt động phạm tội
của chúng.
Đối với sinh viên công an để thực hiện được “liêm” phải xác định động cơ
thái độ học tập, rèn luyện đúng đắn, chống tư tưởng thực dụng trong học tập,
“chạy điểm”, “xin điểm” bằng mọi cách. Trong rèn luyện phải phấn đấu để sớm trở
thành đảng viên.
-“Chính”: đối với người cán bộ
chiến sỹ công an “chính”là phải có bản lĩnh vững vàng, ủng hộ cái đúng, cái
thiện, biết tôn trọng lẽ phải, làm theo lẽ phải, đấu tranh bảo vệ cho lẽ phải;
chống những biểu hiện bàng quan vô trách nhiệm, thấy đúng không dám bảo vệ thấy
sai không dám đấu tranh. Hiện nay một số cán bộ chiến sỹ công an còn né tránh,
đùn đẩy những công việc phức tạp cho người khác, chọn những công việc làm có
lợi cho cá nhân. Không dám đấu tranh trước những biểu hiện tiêu cực trong đơn
vị và ngoài xã hội.
Đối với sinh viên công an cần xây dựng cho mình quan điểm và thái độ đúng
đắn trong học tập và rèn luyện. Kiên quyết lên án và phê phán những biểu hiện
tiêu cực trong học tập, rèn luyện. Nêu gương học tập những tấm gương điển hình,
vượt khó vươn lên trong học tập.
Điều dạy thứ hai:“Đối với đồng sự phải: thân ái, giúp đỡ”.
Phẩm chất đạo đức của con người không chỉ thể hiện trong quan hệ với chính mình mà còn được thể hiện trong mối quan
hệ với người khác, mà trước hết là trong quan hệ với đồng sự. Bác dạy “Thân ái
giúp đỡ” là nhằm mục đích tăng cường sự đoàn kết để hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Cơ sở khoa học của lời dạy:
Thân ái giúp đỡ, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Dân
tộc ta có truyền thống nhân ái, thương yêu con người. Tình thương yêu con người
, giúp nhau trong công việc và cuộc sống, với sự giác ngộ về lý tưởng cách mạng
nó phát triển thành tình đồng chí, đồng đội cao cả.
Thân ái giúp đỡ đồng sự còn là tình cảm cách mạng, tình cảm giai cấp, là
chất keo kết dính các cá nhân trong tổ chức, nhằm tạo ra sự đoàn kết, phát huy
được sức mạnh của tổ chức, của tập thể.
Những nội dung khoa học cần nhận thức và quán triệt:
Thân ái giúp đỡ đòi hỏi mỗi người phải nỗ lực làm tốt trách nhiệm của mình,
đồng thời biết chia sẻ gánh vác khó khăn với đồng đội, sẵn sàng trao đổi kinh
nghiệm của mình với đồng đội để đồng đội cũng làm tốt nhiệm vụ được giao.
Giúp đỡ phải trên tình thân ái, động cơ phải vô tư trong sáng không vụ lợi,
không vì những lợi ích nhỏ nhen của cá nhân mà làm tổ hại đến phẩm chất của
đồng đội.
Thân ái giúp đỡ phải thể hiện trên mọi phương diện: trong học tập, rèn
luyện, trong công tác, trong chiến đấu... Giúp đỡ giữa những người lớn tuổi có
kinh nghiệm lâu năm trong nghề với những người ít tuổi mới bước vào nghề. Giúp
đỡ cả trong những lúc bình thường cũng như lúc gặp khó khăn hoạn nạn, giúp đỡ
cả về vật chất lẫn động viên về tinh thần, giúp đỡ cả khi đồng đội mắc phải
những sai lầm khuyết điểm để họ có điều kiện sửa chữa.
Cần chống các biểu hiện: bàng quan vô trách nhiệm, cục bộ bản vị, né tránh
đùn đẩy trách nhiệm, ích kỷ… Chống đao to búa lớn, xa lánh thành kiến với đồng
chí đồng đội khi có sai lầm khuyết điểm. Không bao che khuyết điểm cho đồng
đội; chống lợi dụng các phương tiện thủ đoạn nghiệp vụ để chia bè, kéo cánh, đi
đến hất cẳng lẫn nhau; đối với cán bộ có chức có quyền phải khắc phục hiện
tượng gia trưởng, độc đoán, trù úm cán bộ chiến sỹ, phải lắng nghe ý kiến mà
nhân dân phê bình góp ý cho lực lượng công an.
Đối với sinh viên công an phải có tinh thần giúp đỡ nhau trong học tập, rèn
luyện. Đấu tranh chống những biểu hiện không lành mạnh trong học tập, rèn luyện
như làm bài giúp bạn, gian lận trong thi cử. Tụ tập rượu chè, chơi bời vô độ,
đua đòi theo những thói xấu của thanh niên ngoài xã hội.
Điều dạy thứ ba : “Đối
với chính phủ phải: tuyệt đối trung thành”.
Đây là điều dạy thể hiện sự rèn luyện bản lĩnh chính trị,
giác ngộ lập trường quan điểm giai cấp của người cán bộ chiến sỹ công an nhân
dân.
Cơ sở khoa học của điều dạy:
Chính phủ của ta là chính phủ của nhân dân có nhiệm vụ tổ chức thực hiện
các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng. Do vậy trung thành với chính phủ
cũng có nghĩa là trung thành với Đảng, với nhân dân.
Công an nhân dân là công cụ chuyên chính sắc bén của nhà nước xã hội chủ
nghĩa có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng
và tài sản của nhân dân. Do vậy lực lượng này phải là lực lượng trung thành tuyệt
đối với chính phủ.
Hiện nay tình hình thế giới và trong nước đang diễn biến phức tạp, các thế
lực đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ, bất chấp luật pháp và các công ước quốc tế
ngang nhiên đem quân xâm lược, can thiệp vào công việc nội bộ của một số nước. Đối
với các nước XHCN như nước ta, chúng ráo riết hoạt động chống phá, móc nối với
các thế lực phản động trong nước gây ra những vụ bạo động chính trị, kích động
các phần tử phản động trong các tôn giáo, dân tộc ít người để chống đối chế độ.
Bằng âm mưu “diễn biến hoà bình” chúng tìm mọi cách kích động gây chia rẽ trong
nội bộ, mua chuộc lôi kéo làm thoái hoá cán bộ, đối với các lực lượng vũ trang
chúng tìm mọi cách chia rẽ, bôi nhọ cán bộ lãnh đạo, làm giảm uy tín trước nhân
dân. Do vậy đòi hỏi người cán bộ chiến sỹ công an phải không ngừng đề cao cảnh
giác, nâng cao giác ngộ về lập trường giai cấp sẵn sàng đối phó với những âm
mưu thâm độc của kẻ thù.
Những
biểu hiện của lòng trung thành:
Về nhận thức: Mỗi cán bộ
chiến sỹ công an phải giác ngộ sâu sắc, tin tưởng tuyệt đối, phấn đấu đến cùng
vì mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng. Trong tình hình hiện nay phải trung
thành và tin tưởng tuyệt đối vào con đường XHCN, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
các quan điểm đổi mới, không hoang mang dao động giảm sút niềm tin xa rời lý
tưởng cách mạng trong bất kỳ tình huống nào.
Về hành động: Phải chấp hành
nghiêm túc mọi chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng; pháp luật
của nhà nước; các chỉ thị, nghị quyết của ngành công an. Hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao. Chống mọi biểu
hiện vi phạm chủ trương đường lối chính sách, pháp luật; lơ là mất cảnh giác;
thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu tinh thần tấn công tội
phạm…Tuyệt đối trung thành còn đòi hỏi phải có lập trường quan điểm vững vàng,
không mơ hồ ảo tưởng vào chủ nghĩa tư bản, luôn nêu cao cảnh giác cách mạng
trước những âm mưu và hoạt động “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch,
kịp thời phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực nhằm bảo vệ Đảng,
bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Đối với sinh viên công an
phải học tập nắm vững các chủ trương đường lối chính sách của Đảng, trau dồi
nâng cao lập trường giác ngộ giai cấp. Chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các chỉ thị nghị quyết của ngành
công an.
Điều dạy thứ tư:
“Đối với nhân dân phải: kính trọng lễ phép”
Kính trọng, lễ phép với nhân
dân vừa thể hiện quan điểm quần chúng của người cán bộ chiến sỹ công an, vừa
thể hiện việc quán triệt đường lối quần chúng trong công tác bảo đảm an ninh
trật tự. Kính trọng lễ phép với nhân dân là một trong những yêu cầu của việc
rèn luyện phẩm chất chính trị của người cán bộ chiến sỹ công an.
Cơ sở khoa học của điều dạy:
Kính trọng lễ phép với nhân
dân, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử. Quần chúng nhân dân - Người sáng tạo ra lịch sử. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, bảo vệ những thành quả của cách mạng cũng là
sự nghiệp của quần chúng. Kính trọng lễ phép với nhân dân còn thể hiện sự kế
thừa các tư tưởng tiến bộ của ông cha ta “Dân là gốc”, Bác Hồ đã dạy; “Nước lấy
dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[60]. Trong cuốn “Đường
cách mệnh” Người viết: “Cách mệnh là sự nghiệp chung của cả dân chúng”và Bác
nhấn mạnh đối với người cán bộ: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành và lực lượng ở nơi dân, Đảng và Chính phủ
là đầy tớ nhân dân, chứ không phải quan nhân dân ”[61].
Kính trọng lễ phép với nhân dân còn xuất phát từ bản chất của lực lượng
công an. Vì chế độ ta là chế độ mà người dân là chủ của đất nước, chủ chế độ xã
hội. Công an của ta là công an nhân dân, là con em của nhân dân, từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân phục vụ, được nhân dân che chở, đùm bọc, giúp đỡ, ủng hộ. Nhân
dân còn tham gia góp ý phê bình xây dựng lực lượng công an để ngày càng trong
sạch vững mạnh… Do vậy người cán bộ chiến sỹ công an phải kính trọng lễ phép
với nhân dân. Bác dạy: “Công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ
dựa vào dân mà làm việc”
Mặt khác bọn phản cách mạng và bọn tội phạm hình sự trà trộn trong nhân
dân bằng nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt phá hoại an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội. Kính trọng lễ phép với nhân dân là đi đúng đường lối quần chúng
trong công tác công an nhằm tạo nên được động lực và phát huy được sức mạnh
tổng hợp to lớn của quần chúng, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng công an
hoàn thành nhiệm vụ. Bác dạy: “Làm công
an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ. Có dựa vào nhân dân thì công
an mới hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhân dân có hàng triệu tai mắt thì kẻ địch
khó mà che giấu được. Nếu trong công tác, các cô các chú được dân ủng hộ làm
cho dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất định các cô, các chú thành công”[62]
Công việc của công an hàng
ngày tiếp xúc với nhân dân, để giải quyết những tâm tư, nguyện vọng, quyền lợi
chính đáng của nhân dân. Nếu người cán bộ chiến sỹ công an không có quan điểm
quần chúng đúng đắn sẽ không thể hết lòng hết sức phục vụ nhân dân được.
Sự kính trọng lễ phép với
nhân dân được thể hiện:
Về thái độ: Thể hiện ở cách
xưng hô đúng mức, nói năng lịch sự, hoà nhã khiêm tốn, có văn hoá, biết kính
nhường những người lớn tuổi, tôn trọng phụ nữ, yêu quý trẻ em. Trân trọng lắng
nghe tiếp thu ý kiến mà nhân dân phê bình, góp ý. Đấu tranh khắc phục những
biểu hiện: nói năng thô tục, thái độ lạnh nhạt, trịch thượng, quan cách, hách
dịch, cửa quyền, ban ơn, coi thường, trù
úm, doạ nạt nhân dân…
Về hành động: Phải lắng nghe những yêu cầu,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, sẵn sàng tìm mọi cách, mọi khả năng để
giải quyết không quản ngại khó khăn gian khổ, nguy hiểm, không phân biệt việc
to hay nhỏ, giá trị vật chất nhiều hay ít, người có địa vị xã hội hay dân
thường…
Tôn trọng không xâm phạm đến
lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân; rèn luyện tác phong đi sâu đi sát
quần chúng kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân để giải quyết hoặc
kịp thời đề xuất với cấp trên giải quyết.
Khắc phục những biểu hiện né tránh đùn đẩy, bàng quan vô trách nhiệm, bao che
tội phạm, đòi đưa hối lộ, để công việc dây dưa kéo dài, hoặc thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ chuyên môn đơn thuần.
Kính trọng lễ phép với nhân
dân còn được thể hiện ở phương châm công tác, ở biện pháp nghiệp vụ của ngành.
Bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an
toàn xã hội là một lĩnh vực cực kỳ phức tạp. Lực lượng công an muốn hoàn thành
tốt nhiệm vụ trên thì phải biết dựa vào quần chúng, tổ chức quần chúng tham gia
vào “phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc”. Bác Hồ đã nói: “Vấn đề kỹ thuật trong
công tác công an cũng cần nhưng vấn đề quan trọng nhất là giáo dục tuyên truyền
cho dân, để quản lý tốt tai, mắt, miệng của dân làm thế nào dân giúp công an để
phát hiện địch. Nói những điều dân biết về địch và giấu địch những điều của ta…
cho nên cần có kỹ thuật, nhưng chủ yếu dựa vào dân ”[63]
Trong
các biện pháp nghiệp vụ của ngành công an, phải coi biện pháp quần chúng là một
trong những biện pháp nghiệp vụ cơ bản chiến lược lâu dài, là nền tảng cơ bản
để thực hiện các biện pháp nghiệp vụ khác.
Kính trọng lễ phép với nhân
dân còn là sự thể hiện quan điểm quần chúng của người cán bộ công an. Mỗi cán
bộ chiến sỹ công an tuỳ theo chức trách nhiệm vụ của mình có ý thức và hành
động quan tâm chăm lo đến cuộc sống vật chất và tinh thần của quần chúng, mà
trước hết là những người đang gặp khó khăn hoạn nạn, những gia đình chính sách…
Lực lượng công an đã có nhiều tấm gương “vì nhân dân phục vụ”: tận tụy trong
công tác, dũng cảm chiến đấu bảo vệ tính mạng và tài sản của dân. Song cũng còn
một bộ phận cán bộ chiến sỹ còn bê tha rượu chè, cờ bạc, sách nhiễu, gây phiền
hà, đòi hối lộ… đã phần nào làm giảm sút niềm tin yêu của nhân dân với lực
lượng công an.
Điều dạy thứ năm:
“Đối với công việc phải: tận tuỵ”
Đây là một yêu cầu về năng lực cần có của
người cán bộ chiến sỹ công an.
Cơ sở khoa học của điều dạy:
Tận tụy với công việc là một
biểu hiện rất quan trọng của sự giác ngộ lý tưởng cách mạng. Lòng trung thành
tuyệt đối với chính phủ chỉ có thể được khẳng định bằng hành động tận tuỵ trong
công việc.
Tận tuỵ với công việc xuất
phát từ yêu cầu đấu tranh của lực lượng công an là bọn phản cách mạng và bọn
tội phạm hình sự. Chúng hoạt động giấu mặt trá hình dưới nhiều danh nghĩa và
bằng nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt khác nhau, chúng lợi dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ để phá hoại cách mạng, xâm phạm tài sản nhà nước và tính
mạng tài sản của nhân dân.
Mặt khác công tác công an
thường đụng chạm đến tính mệnh và tài sản của nhân dân. Do vậy nếu không tận
tuỵ, khách quan trong công việc dễ dẫn đến làm sai, làm oan người vô tội, không
bảo vệ được những quyền lợi hợp pháp của người dân.
Nội dung của điều dạy : Đối với công việc phải
tận tuỵ
Tận tuỵ với công việc là thể
hiện tinh thần trách nhiệm cao, tự giác tự nguyện
toàn tâm, toàn ý vì công việc không nề hà tính toán đến lợi ích riêng tư.
Đối với những cán bộ trực
tiếp làm công tác đấu tranh với tội phạm. phải kiên trì, bền bỉ, làm việc bất
kể thời gian, vượt qua mọi khó khăn, gian khó, nguy hiểm tìm mọi đối sách, mọi
biện pháp để điều tra xác minh, phát hiện, ngăn chặn và trấn áp kịp thời mọi
hành động phá hoại của chúng.
Đối với những cán bộ làm
tham mưu phục vụ phải tôn trọng kỷ luật lao động, tận dụng thời gian miệt mài
say mê nghiên cứu, học tập; làm việc một cách có chương trình kế hoạch cụ thể;
chăm chỉ học tập rút kinh nghiệm trong công tác, không thoả mãn với kết quả đã
đạt được để nâng cao năng xuất và chất lượng, hiệu quả công tác.
Đối với những cán bộ trực
tiếp làm công tác tiếp xúc với nhân dân: Phải có tấm lòng nhân ái, thực sự đồng
cảm với những oan ức, đau khổ mất mát của công dân để nghiên cứu suy nghĩ tìm
mọi giải pháp khắc phục khó khăn nhằm bảo vệ sinh mệnh chính trị tính mạng và
tài sản của nhân dân.
Chống những biểu hiện lười
biếng, thiếu trách nhiệm, ngại khó ngại khổ, dựa dẫm đùn đẩy cho người khác,
hoặc tính toán những công việc có lợi cho cá nhân.
Đối với sinh viên phải xác
định động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Phải say mê học tập nghiên cứu làm chủ
những tri thức khoa học mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo phát hiện ra cái mới
phục vụ cho việc nâng cao chất lượng và hiệu công tác sau này. Chống thái độ
trung bình chủ nghĩa trong học tập rèn luyện.
Điều dạy thứ sáu: Đối với địch phải: “cương
quyết khôn khéo”.
Đây là thể hiện tinh thần
dũng cảm, mưu trí khôn khéo trong công tác đấu tranh chống bọn phản cách mạng
và bọn tội phạm hình sự.
Cơ sở khoa học của điều dạy:
Xuất phát từ bản chất của bọn tội phạm, nhất
là bọn phản cách mạng là căm thù, ngoan cố chống đối cách mạng quyết liệt. Bọn
tội phạm với những âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động ngày càng thâm độc,
tinh vi, xảo quyệt nên cuộc đấu tranh giữa ta và địch là biểu hiện của cuộc đấu
tranh giữa “hai con đường” trên lĩnh vực an ninh - trật tự ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ
đã và đang có nhiều phương thức thủ đoạn hoạt động rất nham hiểm bằng chiến
lược “Diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ Đảng cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy đòi hỏi người cán bộ, chiến sỹ phải cương quyết
khôn khéo trong đấu tranh với kẻ địch.
Cương quyết khôn khéo trong
đấu tranh với kẻ địch còn thể hiện sự kiên định lập trường giai cấp của giai
cấp công nhân, trung thành với sự nghiệp cách mạng, luôn có ý chí chiến đấu và
tư tưởng cách mạng tiến công của cán bộ chiến sỹ ta.
Cương quyết, khôn khéo với
kẻ địch là sự kết hợp hài hoà giữa sự kiên định về lập trường, không xa rời
nguyên tắc với sự mềm dẻo về sách lược và phương pháp đấu tranh. Đây cũng là
một cách xử thế của người phương Đông. Cương quyết với kẻ địch, đồng thời khôn
khéo trong đối sách nhằm triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ địch để làm suy yếu chúng. Phân
hoá kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu, nguy hiểm, trực tiếp trước mắt
để giành thắng lợi chắc chắn nhất, hạn chế đến mức thấp nhất những hao tổn về
sinh lực vật lực của ta.
Nội
dung của điều dạy: “Đối với địch phải: cương quyết khôn khéo”.
Cương quyết với kẻ địch đòi
hỏi người cán bộ, chiến sỹ phải:
Có lòng căm thù địch sâu sắc, bất chấp khó
khăn gian khổ, hy sinh, tiến công và tiến công đến cùng kẻ địch, không khoan
nhượng, không né tránh, hữu khuynh trước mọi thủ đoạn đe doạ hoặc mua chuộc của
kẻ thù.
Phải đi sâu nắm vững tình
hình về âm mưu, phương thức hoạt động của kẻ địch để kịp thời ngăn chặn, bóp
chết chúng từ trong trứng.
Tinh thần cương quyết với kẻ
địch còn đòi hỏi không để lọt kẻ phạm tội, không bắt bừa bắt ẩu làm oan sai
người vô tội.
Phải chủ động phòng ngừa tội
phạm, coi phòng ngừa là chính, phòng ngừa xã
hội, ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra. Tiến tới hạn chế loại trừ dần
những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh tội phạm, đó là thể hiện tinh thần
cương quyết tiến công địch một cách tích cực nhất.
Không nên nhận thức sai lầm
cho rằng cương quyết với địch là phải tiêu diệt về thể xác của chúng, hay bắt
nhiều xử lý nhiều, mà vấn đề là phải tiêu diệt làm sụp đổ những ý định phạm tội
của chúng, phải bắt đúng người, đúng tội, xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Mọi hành vi phạm tội bất kỳ họ là ai, quan hệ xã hội như thế nào, đều phải xét
xử bình đẳng trước pháp luật. Người cán bộ
chiến sỹ công an cương quyết với địch, đồng thời phải có tinh thần nhân đạo
cách mạng, để cảm hoá giáo dục những người “lầm đường, lạc lối” đưa họ từ con
đường tội lỗi trở về với con đường chính nghĩa, làm ăn lương thiện, trở thành
người có ích cho xã hội.
Khôn khéo với kẻ địch: là
nghệ thuật, đối sách khôn ngoan, sáng tạo trong công tác đánh địch. Khôn khéo
với địch thể hiện: ở ý thức cảnh giác cách mạng cao; nhạy bén về chính trị và
nghiệp vụ, thông minh mưu trí biết đề ra đối sách phát hiện và trấn áp có hiệu
quả cao mọi thủ đoạn hoạt động của kẻ địch; biết tránh chỗ mạnh, tìm chỗ yếu,
chỗ sơ hở để tấn công, đánh lừa, câu nhử chúng sa lưới của ta; phải khéo biết
giữ bí mật, biết chọn thời cơ và tạo ra thời cơ để chủ động đánh địch.
Cương quyết khôn khéo với kẻ
địch đòi hỏi mỗi cán bộ chiến sỹ phải kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu
hiện hữu khuynh, né tránh sợ trách nhiệm, sợ vi phạm pháp luật nên không dám
tấn công tội phạm. Đồng thời khắc phục hiện tượng chủ quan mất cảnh giác, thiếu
nhạy bén cứng nhắc, giáo điều thực hiện nghiệp vụ đơn thuần, tả khuynh bắt bừa
bắt ẩu mớm cung, dùng nhục hình…
Đối với sinh viên phải học tập nắm vững pháp
luật và phương châm công tác và các biện pháp nghiệp vụ của ngành. Nghiên cứu
các tình huống nghiệp vụ và giải quyết thành thạo các tình huống nghiệp vụ.
Thường xuyên học hỏi trao đổi kinh nghiệm
với những người đi trước, làm chủ những kiến thức khoa học hiện đại để
sau này phục vụ cho công tác đạt được hiệu quả cao hơn.
III. Một số yêu cầu phẩm
chất đạo đức theo lĩnh vực công tác của cán bộ công an nhân dân
Các
lực lượng công an nhân dân phải thấm nhuần và thực hiện nghiêm chỉnh những yêu
cầu về phẩm chất đạo đức chung của người cán bộ cách mạng, của công an nhân
dân. Tuy nhiên, do tính chất công việc và yêu cầu công tác, mỗi lực lượng cũng
có yêu cầu đặc thù về chuẩn mực đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự quan tâm
đặc biệt.
- Những yêu
cầu phẩm chất đạo đức của cán bộ an ninh
An
ninh quốc gia là “sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa
và của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” (Khoản 1, điều 3,
Luật ANQG, 2005). An ninh quốc gia theo nghĩa rộng bao gồm: An ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh quốc phòng, đối ngoại, lãnh thổ, dân cư, văn hoá tư
tưởng, tôn giáo… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, an ninh kinh tế là nền
tảng. Bác mong rằng “Chính quyền và quần chúng đồng tâm hiệp lực, sao cho “dạ bất
bế hộ, lộ bất thập duy” (Nghĩa là: Ban đêm không cần đóng cửa, ngoài đường
không ai nhặt của rơi)[64].
Nền an ninh đó phải bảo đảm, hạnh phúc thực sự, an toàn thực sự của dân. Muốn
vậy “phải thực sự trung thành, tôn kính, yêu thương nhân dân”.
Những
quy định trên là thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất công an Việt Nam
là Công an nhân dân. Bác nói: “Nhiệm vụ của công an thì nhiều, nhưng nói tóm
tắt là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa”[65].
Công an có nhiệm vụ: Tìm hiểu, thu thập tin tức liên quan đến an toàn quốc gia;
đề nghị thực thi các phương pháp đề phòng những hành động làm rối tình hình trị
an trong nước; truy tìm thủ phạm để đưa ra toà án trừng trị. Xây dựng lực lượng
Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, thực sự là lực lượng chuyên nghiệp, nòng
cốt trên mặt trận bảo vệ an ninh trật tự. Âm mưu của địch luôn tìm cách chia rẽ
nhân dân với Đảng, với Chính phủ, với Công an, tìm cách mua chuộc, lôi kéo nhân
dân để chống phá cách mạng, tìm cách phi chính trị hoá quân đội và Công an.
Trong cuộc đấu tranh bảo đảm an ninh quốc gia thì giữ được thế trận lòng dân sẽ
là thành trì vững chắc nhất, nó quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong cuộc
đấu tranh chống các thế lực thù địch nếu tranh thủ, vận động được quần chúng nhân dân thì nhất
định sẽ chiến thắng.
Từ những tình hình trên Đảng, Nhà nước và nhân dân rất
tin tưởng vào lực lượng An ninh đồng thời
đòi hỏi rất cao những phẩm chất đạo đức của họ.
Cán bộ an ninh phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Do tính phức tạp của cuộc đấu tranh
bảo vệ an ninh trật tự, cuộc chiến đấu chống lại những gì đã “cũ kỹ, hư hỏng để
tạo ra cái gì mới mẻ, tươi tốt”, là cuộc chiến đấu “khổng lồ”, cần phải động
viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân
dân. Vì đối tượng đấu tranh trên mặt trận cả bí mật và công khai, có tiếng súng
và không tiếng súng, vì thế ta dễ sinh ra chủ quan, sơ hở. Bác ân cần khuyên
bảo: “Công an phải tránh được những khuyết điểm ấy và phải: 1. Nhận rõ nhiệm vụ
của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân
dân”. Để làm tròn nhiệm vụ thì “Phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và
của Chính phủ”, “Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng nhân dân, xa rời nhân
dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được”[66].
Hồ Chủ tịch đã chỉ ra rằng “Có lúc có chiến tranh, có
lúc có hoà bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hoà bình thì tập
luyện. Còn công an thì đánh giặc thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hoà
bình lại càng nhiều việc. Còn chủ nghĩa đế quốc, còn giai cấp bóc lột là còn
bọn phá hoại”[67]
- Cảnh giác
và giữ bí mật là yêu cầu tối thiểu của cán bộ phản gián. Vì bọn phản động và bọn đầu cơ là "địch
nhân” lọt vào trong Đảng để hoạt động.
Bác nói: “Đối với địch thì tuyệt đối chớ khinh địch… khinh địch thì nhất định
sẽ thất bại”’ rằng “Ta biết rõ địch thì thắng. Nếu để địch biết rõ ta thì sẽ
thất bại. Cho nên phải hết sức giữ bí mật”[68].
Bác nêu bài học về kinh nghiệm về thực hiện chính sách “ba không” để giáo dục
cho nhân dân tinh thần cảnh giác và biết xây dựng “cái lưới bí mật của nhân
dân”, đó là thành trì của công tác phản gián của nhân dân Việt Nam, cùng với bộ
đội và công an, là cái lưới “thiên la địa võng”, bất kỳ bọn phá hoại nào, bọn
mật thám nào cũng không lọt được cái lưới ấy của nhân dân. Cán bộ an ninh phải
có đức tính cảnh giác cao độ, bởi lẽ giữ nhà, giữ nước, bảo đảm an ninh quốc
gia hết sức quan trọng, là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Chừng nào còn đế quốc, còn thực dân và bọn phá hoại thì còn
phải cảnh giác, nêu cao ý thức giữ gìn trật tự cho nhân dân, “giữ nước càng
phải cảnh giác để ngăn ngừa bọn đế quốc và bè lũ tay sai phá hoại thành quả
cách mạng, phá hoạt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.”[69]
Để chống gián
điệp biệt kích phải tạo ra sức mạnh tổng hợp, dựa vào thế trận lòng dân, người
cán bộ phản gián không được sơ hở, lộ bí mật; chú ý vận động chính trị; phối
hợp các lực lượng.
- Những yêu
cầu phẩm chất đạo đức của cán bộ cảnh vệ. Sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ các đồng chí cấp cao của Đảng, Nhà nước
là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó lực lượng Cảnh vệ là
nòng cốt. Người cán bộ cảnh vệ phải
chiến đấu trong điều kiện đặc biệt, đòi hỏi yêu cầu công tác rất cao, do kẻ thù
rất xảo quyệt, phải bảo vệ được mục tiêu, con người, bảo vệ nhân dân. Người cảnh vệ ắt phải có phẩm chất và
năng lực đặc biệt. Bác yêu cầu cán bộ cảnh vệ cần có những phẩm chất chính sau:
Một là: kỹ thuật bảo vệ phải khéo léo. Người dạy rằng
“Muốn làm tốt công tác bảo vệ, các cô, các chủ phái biết đánh địch, phải biết
võ giỏi, phải khoẻ, phái bắn súng giỏi. Muốn bảo vệ tốt, các cô, các chú phải
có kỹ thuật, phải giữ được bí mật và phải có thái độ tốt với đồng bào”[70],
phải thường xuyên cố gắng rèn luyện nhiều, biết học mưu trong phép dụng Binh
pháp Tôn Tử, bơi giỏi, chèo thuyền giỏi. Cán bộ phải giữ phẩm chất “dũng cảm,
bình tĩnh, không lộn xộn, vội vàng”[71]
khi xử lý các tình huống, theo phương châm: “Nội dung chặt chẽ, hình thức thích
hợp”.
Hai là: phải giữ bí mật. Phải bảo vệ là vì còn kẻ địch
với nhiều âm mưu thủ đoạn hoạt động, ta biết giữ bí mật, thì bọn Việt gian, mật
thám khó mà hoạt động.
Ba là: phải có thái độ tốt với đồng bào. Lực lượng
Cảnh vệ phải biết dựa vào dân, làm tốt công tác dân vận, phối hợp chặt chẽ với
các lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp, vươn lên ngang tầm nhiệm vụ, tinh
thông nghiệp vụ, áp dụng thành thục các thành tựu khoa học kỹ thuật.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng,
thực hiện tốt nghị quyết 21 của Bộ chính trị về công tác an ninh trong tình
hình mới, lực lượng an ninh nhân dân phải rèn luyện những đức tính cơ bản là:
trung thực, bình tĩnh, linh hoạt, dũng cảm, nhạy bén, yêu nghề.
Những chuẩn mực đạo đức trên đã được Đảng ta quán
triệt trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, được Nhà nước ta từng bước thể chế hoá
trong Luật An ninh quốc gia.
- Những yêu cầu về phẩm chất của cán bộ cảnh sát nhân dân
Dựa
vào dân vừa là phẩm chất, vừa là năng lực của cán bộ cảnh sát. Người dạy rằng;
“ Về việc quét bọn cao bồi, buôn lậu, công an không làm một mình mà phải dựa
vào dân. Không có dân không biết bọn buôn lậu; dân biết hàng hóa
ở đâu ra, mà gái điếm hoạt động người ta cũng biết”[72].
Những
cán bộ cảnh sát thường xuyên tiếp xúc với nhân dân như cảnh sát giao thông,
cảnh sát quản lý hành chính càng phải có thái độ đúng đắn với dân, tận tâm với
công việc, tránh sách nhiễu, phiền hà với dân. Người cán bộ làm công tác quản
lý hộ tịch, hộ khẩu cũng phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, phải “đoàn
kết chặt chẽ hơn nữa, nâng cao cảnh giác hơn nữa”, góp phần thực hiện “mỹ tục,
thuần phong, cần, kiệm, liêm, chính”[73]
Theo
Luật Phòng cháy, chữa cháy (PCCC) qui định hàng năm lấy ngày 4/10 là “Ngày toàn
dân PCCC”, thực hiện nguyên tắc mọi hoạt động PCCC trước hết phải được thực
hiện và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ, lấy phòng là chính. Đầu
năm mới (1/1/1955), Bác thân mật thăm hỏi các đồng chí PCCC và nói : “ Nhân dịp
năm mới, Bác chúc các chú thất nghiệp”, rằng “ Nếu các chú có việc làm luôn thì
nhà dân cháy hết”. Vì vậy, cán bộ PCCC tôn trọng phương châm là phải lấy phòng
là chính. Sự nghiệp đó phải vì dân và do dân, vì gần 50 % tổng số vụ cháy là do
người dân sơ xuất, bất cẩn gây cháy và lại là người đầu tiên phát hiện và tham
gia chữa cháy. Năm 1966 Bác khen lực lượng PCCC đã “ bình tĩnh, tích cực, và
dũng cảm”, đồng thời Bác dạy thêm 4 điều: luôn nêu cao cảnh giác, chớ chủ quan,
tự mãn; sẵn sàng để nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ bất kỳ trong tình huống nào,
để bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân; không ngừng học tập, nghiên cứu,
phát huy sáng kiến để tiến bộ; thường xuyên hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ
cho dân phòng.
Đối
với lực lượng cảnh sát làm công tác quản lý cải tạo phạm nhân cần quán triệt tư
tưởng về giáo hoá con người “đặc biệt”, vì đây là đối tượng đặc biệt và bằng
phương pháp đặc thù. Trước hết, cán bộ phải thực hiện tinh thần “khoan hồng đại
độ”, vì “Trong mấy triệu con người cũng
có người thế này, thế khác nhưng thế này thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta..”,
nên đối với đồng bào lạc lối lầm đường đó, ta phải lấy “tình thân ái mà cảm hoá
họ”. Đối tượng quản lý giáo dục trước đây từng là tề nguỵ, phỉ, những người đã
tham gia những tổ chức, đảng phái phản động nên cần phải “làm kiên quyết, nhưng
phải hết sức cẩn thận và khôn kéo” mới thành công được. Nếu có phương pháp
thích hợp thì “ai cũng có thể trở thành người tốt”, “ không ai là người bỏ đi”.
Điều quan trọng là cán bộ phải chỉ cho trại viên thấy rõ sai lầm của mình để họ
“thành tâm sửa chữa”, do đó Người chỉ thị rằng: “ Nặng về giáo dục, nhẹ tay xử phạt để
dìu dắt con người bỏ đường tà theo đường chính”.
Bác
dạy lực lượng công an khu phố, huyện và xã, đó là những cơ sở của công an, thì
“Nội bộ phải đoàn kết chặt chẽ, “đi sâu, đi sát, tránh chủ quan”, phải chu đáo
và quyết tâm, bền bỉ, phải tuyệt đối trung thành và có một ý chí kiên cường. Để
hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang đó cần có sự giúp đỡ và lãnh đạo chặt chẽ của các
cấp ủy Đảng.
- Những yêu
cầu phẩm chất đạo đức của cán bộ tình báo nhân dân.
Công tác tình báo, nhất là tình báo chiến lược có ý
nghĩa tối quan trọng đối với mỗi quốc gia. Đây là công tác cực kỳ khó khăn, nguy
hiểm, cán bộ tình báo không những phải thạo về chuyên môn, hiểu đối phương cần
phải có yêu cầu về phẩm chất đạo đức rất cao trung thành tuyệt đối, gan góc,
khôn khéo, nhẫn nại. Tình báo là một khoa học, trước hết là khoa học tổng hợp
về con người, khoa học đấu tranh chính trị đặc biệt, đấu trí, đấu lực đầy khó
khăn, mạo hiểm. Họ đồng thời cũng là lực lượng đặc biệt, được đào tạo đặc biệt
và đối xử cũng đặc biệt.
Quan
điểm nhân dân là bản chất đạo đức của cán bộ tình báo. Người dạy rằng: “Tình
báo cũng như mọi việc khác phải dựa vào nhân dân. Tai mắt của người tình báo có
hạn. Nhân dân có hàng chục triệu tai mắt việc gì họ cũng có thể nghe, có thể
biết”[74].
Vì vậy người tình báo phải cố gắng làm thế nào cho nhân dân giúp sức, thì sẽ
“thành công to”. Muốn làm việc một cách khoa học, đòi hỏi cán bộ tình báo phải
có những đức tính cẩn thận, chịu khó, ham học hỏi, phải điều tra, nghiên cứu,
tích cực thi đua học tập, không dấu dốt. Người xưa nói: “ Biết địch, biết ta,
thì trăm trận ta thắng cả trăm”, biết địch là nhiệm vụ của tình báo.
Trong Hội nghị Tình báo (tháng 8 năm 1949) Hồ Chủ tịch
đã dạy, người làm tình báo ắt phải có 4 đức tính: “Bí mật, cẩn thận, khôn khéo, kiên nhẫn”.[75]
Điều đó bây giờ và sau này vẫn đúng.
Đức tính giữ bí mật. Bác dạy rằng, tình
báo "là việc bí mật nhất trong những bí mật", rằng "biết được bí
mật tức là nắm được phần lớn thắng lợi trong tay". Phải bí mật, cẩn thận tức là tuyệt đối tránh sơ suất, là thực
hiện nghĩa vụ với Tổ quốc, với Chính phủ, là nguyên tắc trong hoạt động tình
báo. Bởi lẽ, " Ta biết giữ bí mật
thì dù địch có trăm tai ngàn mắt cũng không dò được tin tức và đoán được sự
hành động của ta".
Đức tính cẩn
thận. Tình báo là một khoa học nên
phải cẩn thận, tỷ mỷ, chính xác, khách quan. Bác nhấn mạnh “phải tuyệt đối tẩy
sạch những chứng: khoe khoang, ba hoa, cẩu thả, hấp tấp, lộ bí mật, làm việc
luộm thuộm, sơ suốt hoặc làm bằng cách bàn giấy..”. Nếu tin tức tình báo hoặc
thiếu chính xác, hoặc quá lạc hậu dẫn tới những quyết sách có thể sai lầm thì
hậu quả thật khó lường.
Đức tính khôn
khéo. Đối với địch phải cương quyết,
khôn khéo là đòi hỏi rất cao đối với cán bộ tình báo, phải hết sức sáng suốt,
mưu trí, năng động, nhạy cảm. Vì thế Bác dạy rằng “phải kiên quyết tránh những
bệnh chủ quan, khinh địch, hiếu danh, cá nhân chủ nghĩa. Đó là những kẻ địch
“Vô ảnh, vô hình”, nó nấp trong tâm lý của cán bộ và nguy hiểm hơn mấy phòng
hai Pháp cộng lại”[76].
Do yêu cầu phải xã hội hoá, hoạt động càng thâm nhập vào nội bộ
"địch" càng đòi hỏi phải phải giữ nguyên tắc đồng thời phải có nghệ thuật
đấu tranh sắc bén.
Kiên nhẫn là đức tính gắn bó suốt đời cán bộ tình báo.
Hoạt động, chiến đấu trường kỳ, gian khổ, thậm chí phải hy sinh lợi ích trước
mắt vì mục tiêu lâu dài.Vì sao tình báo địch hoạt động được là ta sơ suất, kém
cẩn thận, không biết giữ bí mật, do cán bộ ta phạm nhiều khuyết điểm: nói năng
không cẩn thận; viết lách không cẩn thận; đi lại không cẩn thận. Bác viết
"Rừng có mạch, vách có tai, ta trong nói chuyện, giặc ngoài lắng
nghe"
- Cán bộ công
an ở trung ương và địa phượng, từ cấp thấp đến cấp cao, dù ở cương vị nào, đều
phải đoàn kết, hợp đồng chiến đấu, phải đều tuân thủ những yêu cầu phẩm chất
đạo đức của người công an cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Người quan tâm rèn luyện từ người chiến sĩ trẻ đến các
tướng lĩnh. Chiến sĩ trẻ, phải cố gắng công tác, học tập, rèn luyện, sản xuất,
tiết kiệm hơn nữa, phải "thật thà đoàn kết", đoàn kết nội bộ giữa cán
bộ với chiến sĩ, giữa chiến sĩ với chiến sĩ, giữa đơn vị và nhân dân xung quanh
để làm tốt nhiệm vụ.
Vận dụng Binh pháp Tôn Tử,
Bác yêu cầu người tướng lĩnh phải tinh thông lắm mới xét đoán được thực hư,
phải có "chí xét đoán tinh vi để phân biệt được thực hư trong những báo
cáo của gián điệp".
Bác đi nhiều địa phương, khen công an địa phương và
không quên nhắc nhở cán bộ công an phải "khôn khéo, can đảm", làm vẻ
vang cho địa phương và toàn quốc, thực hiện khẩu hiệu "mỗi ngày một chiến
công".
Bác khuyên cán bộ thủ đô, dù làm công việc quản lý hộ
tịch hộ khẩu, hay làm bất cứ việc gì, đều phải đoàn kết chặt chẽ hơn, nâng cao
cảnh giác hơn nữa, chủ động phòng ngừa bọn phá hoại, giữ gìn trật tự an ninh,
chống bọn tham ô, lãng phí, làm cho thủ đô phồn thịnh, thực hiện mỹ tục thuần
phong đều phải có phẩm chất "cần, kiệm, liêm chính". Hơn thế nữa, cán
bộ thủ đô phải làm "gương mẫu", làm "đầu tàu" cho các địa
phương khác.
Trở lực của mỗi
người cán bộ công an là chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy mỗi người cần phải vượt lên
chính mình. Không có đạo đức cách mạng thù chủ nghĩa cá nhân sẽ trỗi dậy, xâm
hại đến lợi ích chung.
IV.
Rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ công an nhân dân
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay
Trong điều kiện chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế,
tình hình chính trị kinh tế thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, tạo ra
những cơ hội cả thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nền kinh
tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự điều tiết của Nhà nước. Sự khắc nghiệt của cơ chế thị trường không thể
không tác động đến suy nghĩ và hành động của cán bộ chiến sỹ công an nhân dân.
Nhưng dù trong bất cứ tình huống nào chúng ta đều phải bảo đảm an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội, giữ vững sự ổn định xã hội để đất nước phát
triển bền vững. Mỗi cán bộ công an phải vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ
mới.
1.
Tiếp tục học tập, quán triệt 6 điều Bác dạy về "Tư cách người công an cách
mạng" trong tình hình mới
- Tuyên truyền, giáo dục là nhân tố quyết định hình
thành phẩm chất đạo đức cán bộ công an. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, học tâp và làm theo tư tưởng đạo đức cuả Người nói riêng cần được coi là
nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Đảng[77].
Nghiêm chỉnh thực hiện Chỉ thị 06 -CT/TƯ ngày 7 tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính
trị về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, cần duy trì phong trào thi đua thường xuyên, liên tục trong toàn lực
lượng Công an nhân dân, thấm nhuần, nghiêm túc thực hiện Di chúc của Bác, nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
- Phải nghiêm
chỉnh thực hiện 6 điều Bác dạy Công
an nhân dân để hình ảnh người công an
nhân dân cách mạng đã dần dần trở nên gần gũi và thân thương với nhân dân đi
đến dân tin công an, ủng hộ và giúp đỡ công an. Xây dựng lực lượng công an cũng
cần có sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân. Đảng, Nhà nước, Chính phủ, nhân
dân. Đảng uỷ Công an Trung ương và lãnh
đạo Bộ Công an đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo, đã có nhiều chủ trương kế hoạch và
đã phát động một phong trào liên tục, rộng rãi trong toàn lực lượng Công an nhân dân học tập, thấm nhuần sâu sắc 6 điều Bác Hồ dạy
Công an nhân dân. Tư tưởng đạo đức, tấm gương và phong cách đạo đức đã và đang
đi vào trái tim, tình cảm, lý trí và cuộc sồng mỗi cán bộ chiến sỹ công an nhân
dân. Mỗi cán bộ công an bản thân không những hiểu, thấm nhuần sâu sắc, thực
hiện nghiêm túc mà còn phải biết tuyên truyền, tổ chức thực hiện trong đơn vị,
trong toàn lực lượng và toàn xã hội. Tại Hội nghị công an toàn quốc lần thứ 10
(1-1956), Bác khuyên công an cần tránh những khuyết điểm: “Sợ khó, sợ khổ,
không bền gan, không quyết chí, kém cảnh giác, hữu khuynh”. Bác Hồ nói: “Công
an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng
ấy vẫn còn ít lắm cạnh nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn
đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu đôi
mắt và đôi tai mới được. Muốn vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu
không thế thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều,
giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”[78]
- Giáo dục đạo đức gắn liền với luyện tài để xây dựng,
phát triển toàn diện nhân cách người cán bộ công an cách mạng, chính qui, tinh
nhuệ, tương đối hiện đại. Muốn vậy phải mỗi cán bộ phải tự giác không ngừng học
tập, rèn luyện phấn đấu, vươn lên ngang tầm nhiệm vụ cách mạng
giao cho. Không nên dấu dốt, vì “dấu dốt thì không bao giờ thông được”.
- Cung cấp hệ thống tài liệu, sách báo phổ biến rộng
rãi tình hình thời sự, chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Những chuẩn mực
đạo đức, tư cách mà người Công an cách mạng phải giữ đúng, phải được phổ biến
rộng rãi bằng nhiều hình thức phong phú và thiết thực. Bác góp ý, chẳng hạn,
“Nêu lên mặt báo mà lại nên viết thành ca dao cho mọi người công an học thuộc,
nên viết thành khẩu hiệu dán ở những nơi các anh em công an thường đến”[79]
để cán bộ dễ nhìn, dễ đọc, dễ nhớ.
2. Chú trọng
công tác cán bộ nhằm xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh
Thấm nhuần lời Bác dạy cán bộ là
dây chuyền của bộ máy công an, "nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì
động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt", "cán bộ dở thì
chính sách hay cũng không thể thực hiện được". Điều đó có nghĩa là, công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu. Chúng ta cần tập trung
xây dựng lực lượng công an trên các mặt sau:
- Xây dựng lực lượng Công an nhân
dân vững về chính trị. Mỗi cán bộ chiến sỹ thường xuyên rèn luyện bản lĩnh
chính trị vững vàng, ý chí quyết chiến, quyết thắng. Cần thấm nhuần hơn nữa chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng đạo đức mới xã hội
chủ nghĩa. Mỗi người cán bộ cách mạng cần phải suốt đời học tập noi gương đạo
đức, tác phong của Bác Hồ, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, ghi nhớ và
làm theo lời dạy của Người để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Bác nói: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của Nhà nước,
của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại
hy sinh tất cả lợi ích riêng của mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính
mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt cao quí của đạo đức
cách mạng”, rằng “có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”, lo hoàn thành tốt nhiệm vụ chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ,
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”[80].
Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng quân đội nhân
dân và công an nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là
lực lượng nòng cốt của sức mạnh quốc phòng – an ninh; nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong
sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân
dân, luôn được nhân dân tin cậy, yêu mến”. Do đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng
lực lượng công an nhân dân trong sạch vững mạnh, tăng cường củng cố bản lĩnh
chính trị, tư tưởng, lối sống, đạo đức của người công an cách mạng. Trong Báo
cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương trình bày tại Đại hội X, Đảng ta chỉ
rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,
bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”.
Chống suy thoái về đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác trong lực
lượng Công an nhân dân là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Cán bộ công an phải tuyệt
đối trung thành với chủ nghĩa xã hội, trung thành với lý tưởng, sự nghiệp của
Đảng, với lợi ích của dân tộc và nhân dân. Luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh
giác cách mạng. Nêu cao truyền thống yêu nước, yêu nghề. Sẵn sàng chiến đấu để
hoàn thành mọi nhiệm vụ mà hậu bị của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Người đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ, đội hậu bị của Đảng. Trong Di chúc,
Người dặn lại: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần
thiết”. Vì nâng cao đạo đức người công an cách mạng là đòi hỏi vừa lâu dài vừa
cấp bách của sự nghiệp cách mạng, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia.
- Nâng
cao đạo đức cách mạng cho cán bộ công an hiện nay là nhằm đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng con người mới, văn hoá mới ở nước ta hiện nay. Tâm và tài,
đạo đức và văn minh, tài và đức là hai mặt cơ bản trong nhân cách của người
công an cách mạng, thiếu một trong hai mặt là lệch nhân cách. Bác coi chính
trị, đạo đức là phần “hồn”, gốc của người cán bộ, rằng “Chính trị là linh hồn,
chuyên môn là thể xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn xác
không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn… Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên
môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà i, tờ thì dạy thế nào.
Đức phải có trước tài”[81]
. Trong lớp chỉnh huấn khoá II của Bộ Công an, Hồ Chí Minh nêu một tư
tưởng rất cơ bản và quan trọng, không chỉ có ý nghĩa chiến lược của ngành công
an mà còn có ý nghĩa với toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, đó là tư tưởng về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Người nói: “Con
người xã hội chủ nghĩa là phải đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân”[82].
Người cũng nêu ra hướng xây dựng con người Công an xã hội chủ nghĩa. Mỗi người
công an đều có đấu tranh giữa cái thiện và cái ác hay giữa tư tưởng cộng sản và
tư tưởng cá nhân, “tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ. Còn tư tưởng cá
nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”[83].
Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều thứ xấu, thiên hình vạn trạng.
Đạo đức người công an cách mạng dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có kế thừa giá trị truyền thống văn
hoá, đạo đức của nhân dân thế giới và của dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh, trật tự là bộ phận hữu cơ trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản để bảo vệ tổ quốc trên lĩnh vực an ninh quốc gia, trật
tự của đất nước, là kết quả của sự vận động và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy giá trị
truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc, tiếp thu những kinh
nghiệm, tinh hoa văn hoá thế giới trên lĩnh vực an ninh, trật tự của nhân dân
thế giới.
3. Tăng
cường công tác lãnh đạo, quản lý của thủ trưởng, cấp ủy công an các cấp, sự
giám sát, giúp đỡ của nhân dân đối với cán bộ chiến sĩ công
an nhân dân
Các cấp ủy Đảng trong Công an nhân dân phải tăng cường công tác lãnh
đạo công tác tư tưởng và tổ chức, cán bộ, cần duy trì sinh hoạt chi bộ đều đặn,
giữ vững kỷ luật của Đảng. Đặc biệt phải chăm lo đến việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho đoàn viên và thanh niên, chăm lo giáo dục, phát
triển thế hệ trẻ công an nhân dân.
Thủ trưởng các cơ quan trong lực lượng Công an phải
nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân, quản lý chặt chẽ cán bộ
của mình phụ trách, phải đề cao tinh thần gương mẫu trước nhân viên. Nguyên
nhân của tình trạng suy thoái đạo đức của cán bộ do nhiều nguyên nhân, trong đó
có tình trạng là do một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ
chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu,
vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ. Bởi lẽ “Nếu cán bộ, đảng viên kêu
gọi nhân dân cần, kiệm mà chính mình lười biếng, sống xa xỉ, lãng phí, thì
tuyên truyền một năm cũng vô ích, bởi một tấm gương sống còn giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền”.[84]
Người đảng viên phải tiên phong đi trước đồng thời biết vận động, lôi kéo quần
chúng noi theo. Thủ trưởng các đơn vị công an cần tổ chức phân công, phân nhiệm
rõ ràng, duy trì kỷ luật, điều lệnh nội vụ công an nhân dân, kiểm soát nhân
viên và công việc của mình đồng thời phải gương mẫu trước nhân viên, không vi
phạm những qui định đối với đảng viên (19 điều) và đối với công an nhân dân (12
điều) không được làm. Do vậy việc tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh đồng thời phải xiết chặt kỷ cương, tăng cường trách nhiệm có ý
nghĩa then chốt trong giáo dục đạo đức hiện nay trong lực lượng Công an nhân
dân.
Cần coi trọng
công tác đấu tranh phê và tự phê bình, đó là qui luật phát triển của Đảng. Tổ
chức để cán bộ công an phê bình và tự phê theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách.
Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến
hiểu công an, yêu công an và giúp đỡ công an. Cán bộ công an cần gương mẫu thực
hiện chính sách của Đảng và Nhà nước tại khu cư trú.
- Giáo dục đạo đức phải gắn với thực tiễn cách mạng và
cuộc đấu tranh chiến đấu của lực lượng công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ
an ninh quốc gia.
Tổ
chức tốt cuộc vận động "Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" với cuộc vận động "Xây dựng lực lượng CAND vì nước quên thân,
vì dân phục vụ". Đặc biệt cần
tổ chức cho thế hệ trẻ công an xung kích tham gia các phong trào vào bảo vệ an
ninh tổ quốc. Động viên, tôn vinh nhưng chiến công, những sáng tạo của họ đã
làm sáng danh người chiến sĩ công an nhân dân.
Phát động trong và ngoài ngành học tập những tấm gương
của những anh hùng, những chiến công của các chiến sĩ công
an tiêu biểu cho phong trào “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.
Các tổ chức Đoàn thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ Công an
nhân dân cần cải tiến nội dung, hình thức hoạt động nhằm
động viên, giáo dục lý tưởng, niềm tin, động lực, tinh thần trách nhiệm, tận tụy để “chặn tay bọn phá hoại”, tất cả vì sự nghiệp bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
- Cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy,
tuyên truyền đạo đức cách mạng trong lực lượng công an nhân dân, trước hết là
trong hệ thống các trường Công an nhân dân.
Căn cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh của cán bộ công an, mỗi
địa phương, đơn vị cần cụ thể hóa các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức người công
an cách mạng thành những yêu cầu, tiêu chuẩn cụ thể phù hợp với đơn vị, địa
phương và phải sát hợp yêu cầu của thực tiễn chiến đấu của ngành. Từng lực
lượng cần thực hiện nghiêm túc những qui định của Bộ trưởng về Điều lệnh, về
yêu cầu phẩm chất đạo đức cho riêng từng lực lượng. Thực hiện chương trình hành
động “Xây dựng phong cách người Cảnh sát nhân dân vì nước quên thân, vì dân
phục vụ”, góp phần từng bước xây dựng hình ảnh đẹp người Cảnh sát nhân dân: đẹp
về tâm hồn, về ứng xử, về hành động, về lòng dũng cảm, vì nước quên thân vì dân
phục vụ và đẹp cả về hình thể. Lực lượng Cảnh sát giao thông cần thực hiện
nghiêm chỉnh 5 tiêu chuẩn về đạo đức tác phong, thực hiện đông thời cả 3 “xây”
và 3 “chống”.
Tổ chức, tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng về giáo dục đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ
công an. Đề cao những tấm gương sáng, những anh hùng, chiến sĩ
thi đua, hình tượng cao đẹp người cán bộ công an "vì nước quên thân, vì
dân phục vụ". Chọn lọc kỹ đầu vào, nêu cao tính kỷ luật và tự giác, tăng
cường thực hành chính trị đối với học sinh. Định kỳ tổ chức đào tạo lại để nâng
cao bản lĩnh chính trị, vững về pháp luật, sắc về nghiệp vụ phù hợp với các cấp
bậc của lực lượng Công an nhân dân.
Cần dấy lên phong trào sâu rộng, với những phương
châm, khẩu hiệu hành động phong phú, phù hợp với từng loại đối tượng, cần có sự
tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân điển hình tiên tiến, tránh bệnh hình thức,
rườm rà, tốn kém.
Cải tiến chế độ chính sách với cán bộ công an, đặc
biệt quan tâm tới đời sống cán bộ vùng sâu, vùng xa, những nơi đang diễn ra
cuộc đấu tranh nóng bỏng, quyết liệt để họ yên tâm, phấn khởi công tác và cống
hiến lâu dài cho sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội,
tiến tới xây dựng công an nhân dân thành “một lực lượng cách mạng vô địch”.
4. Thường
xuyên tổ chức sinh hoạt chính trị, đẩy mạnh công tác đấu tranh phê và tự phê
trong việc xây dựng đạo đức người công an cách mạng
Bác đã nhấn mạnh “Trong nội bộ công an phải phê bình
nhau. Đối với người không sửa được thì phải tẩy trừ ra khỏi ngành kẻo để lại
thì con sâu làm rầu nồi canh”[85]
. Nội bộ công an từ lãnh đạo cho đến nhân viên phải đoàn kết nhất trí.
Đoàn kết không phải là "chén chú chén anh", là anh A giấu cho anh B.
Có hình thức động viên, khen thưởng kịp thời những đơn vị, cá nhân có nhiều
phong trào, hình thức sáng tạo, hiệu quả thực hiện nghiêm túc Sáu điều Bác dạy.
Người nói: “Hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công an, yêu
công an và giúp đỡ công an”[86].
Đó là đòi hỏi rất cao của quá trình xã hội hoá công tác xây dựng lực lượng công
an nhân dân. Bởi lẽ khi nào dân chân thành phê bình công an, hiểu công an, tin
công an, yêu công an, khi đó công an mới thực sự là công an của dân. Để tiến bộ
công an cần biết gột rửa những khuyết điểm của mình, Bác thẳng thắn nêu ra
những khuyết điểm của cán bộ nói chung, của công an nói riêng, đồng thời Bác
chỉ ra những việc cần làm để tránh mắc phải những khuyết điểm đó. Tuy công an
là của nhân dân, nhưng đồng thời phải biết phê bình người phạm sai lầm. Trong
nội bộ, công an cũng phải biết phê bình nhau.
Cần tổ chức cho quần chúng phê bình cán bộ công an khu
dân cư; lập hòm thư góp ý cho cán bộ công an.
Phải tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân, vì "còn chủ nghĩa
cá nhân là còn có địch ở bên trong, địch ở trong con người mình". Người
nói: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình,
không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể, “miễn là mình béo thiên hạ gầy”[87].
Họ thường so bì đãi ngộ: lương thấp, cao, quần áo đẹp, xấu, là uể oải, muốn
nghỉ ngơi, hưởng thụ, an nhàn. Tóm lại, đó là tất cả những gì trái với đạo đức
cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều bệnh khác: sợ khó, sợ khổ, tự do cá
nhân, vui thì làm, không vui thì không làm. Như thế sẽ hạ uy tín của Đảng và
Nhà nước, làm giảm lòng tin của dân… Vì thế, trong bài báo cuối cùng của mình,
Người viết riêng về việc “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân” đã cảnh báo về sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân. Sự suy thoái về đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cũng từ đó mà ra. Tẩy
trừ chủ nghĩa cá nhân không phải chống một lần mà hết được phải làm kiên trì,
thường xuyên ví như “rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”.
Cần chăm lo đến lợi ích thiết thân
của cán bộ, chiến sỹ công an ở những nơi trận tuyến nóng bỏng, những vùng sâu,
vùng xa, vùng cực kỳ khó khăn của đất nước. Thực hiện quan điểm quần chúng là
điều không dễ. Thực tế, theo Bác, “lẻ tẻ vài nơi nhân dân còn chê trách đấy”.
Vì thế chúng ta cần nhận ra những thiếu sót, phải phê và tự phê chân thành, sâu
sắc. Mỗi cán bộ cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, phải trau dồi đạo đức cách
mạng. Tại lớp chỉnh huấn của Bộ Công an (5-1959), Bác đề nghị tập trung vào
việc chống chủ nghĩa cá nhân, tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh quan
liêu, mệnh lệnh là bệnh “quyền uy”, do “xa nhân dân”; “khinh nhân dân”; “sợ
nhân dân”; “không hiểu nhân dân” và “không yêu thương nhân dân”, dễ dẫn đến lạm
dụng trách nhiệm, thậm chí vô trách nhiệm. Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái
ác cũng chính là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân.
Tóm lại, rèn luyện đạo đức người
công an là gốc của quá trình hình thành tư cách người công an cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, người công an có văn hoá. Nó gắn liền với quá trình xây dựng
lực lượng công an cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trước
hết phải là lực lượng trong sạch, vững mạnh. Do vậy, mỗi cán bộ công an phải tự
ý thức được vinh dự và trách nhiệm của mình để tự phấn đấu vươn lên, ngang tầm
với nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Đạo đức học – Khoa
triết học – Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Nxb CTQG H.2000.
2. Giáo trình Đạo đức học – T.S Trần Hậu Kiêm – Xxb
CTQG H. 1992.
3. Giáo trình Đạo
đức học – Bộ môn Mác - Lênin, HVCS – 2004.
4. Giáo trình Đạo
đức học- Phạm Khắc Chương- Nguyễn Thị Yến Phương, Nxb Đại học Sư phạm.
5. Giáo trình Đạo
đức học Mác-Lênin- Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội, 1990.
6.
Hỏi- Đáp về đạo đức học- T.S Trần Hậu Kiêm ( Chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia,
1995.
7. Đạo đức học
Phương Đông cổ đại- TS Vũ Tình- Nxb Chính trị Quốc gia, 1998
8. Một số vấn đề về
lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội- GS Huỳnh Khái Vinh- Nxb Chính trị Quốc
gia, 2001.
9. Hệ thống phạm
trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên- PGS, TS Trần Hởu Kiêm – TS.
Đoàn đức Hiếu, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004.
10.V.G. Bielin xki: Trước tác của A. PusKin. Bài báo 11, Toàn
tập, 1955. Tập 7 tr. 193
11.
M.I Kalilin - Bàn về giáo dục cộng sản chủ nghĩa, 1952
12. Triết học đạo
đức- Vladimir Soloviev Karol Vojtyla
Alabert Schweitzer- Nxb Văn hoá Thông tin, 2004.
13. Đi tìm hạnh
phúc cuộc sống- Richk Poster & Greg Hichs- Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh, 2005
14. Hồ Chí Minh
- Về an ninh trật tự - Nxb CAND, Viện KHCA, H. 1995.
15. Hồ Chí Minh –
Về xây dựng con người mới - Nxb CTQG H. 1995.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam - Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc -Từ Đại
hội VI - X.
17. Ban văn hoá tư tưởng trung ương- Một số lời dạy
và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Nxb CTQG H. 2007.
18. Cục công tác chính trị, Tổng cục CSND - Đạo đức
nghề nghiệp trong hoạt động của lực lượng CSND –– NxbCTQG H.2006.
19. Tổng cục CSND – Văn hoá ứng xử của người CSND –
NxbCAND.2007.
mục lục
Mục
|
Nội dung |
Trang |
|
Lời mở đầu
|
|
Chương I |
Nhận thức cơ bản về đạo đức học Mác-Lênin
|
2 |
I. |
Đạo đức học với tư cách là khoa học về đạo đức |
2 |
1 |
Khái niệm đạo đức |
2 |
2 |
Cấu trúc của đạo đức |
6 |
3 |
Đối tượng, phương pháp,
nhiệm vụ của đạo đức học Mác-Lênin |
9 |
II |
Nguồn gốc, bản chất, chức năng của đạo đức |
13 |
1 |
Nguồn gốc của đạo đức |
13 |
2 |
Bản chất của đạo đức |
16 |
3 |
Chức năng của đạo đức |
19 |
III |
Các kiểu đạo đức trong lịch sử và mối quan hệ giữa
đạo đức với một số hình thái ý thức xã hội khác |
23 |
1 |
Các kiểu đạo đức trong lịch
sử |
23 |
2 |
Mối quan hệ giữa đạo đức
với các hình thái ý thức xã hội khác |
27 |
Chương II |
Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học
|
34 |
I |
Nhận thức chung về phạm trù đạo đức học |
34 |
1 |
Định nghĩa phạm trù đạo đức
học |
34 |
2 |
Đặc điểm của các phạm trù
đạo đức học |
34 |
II |
Nội dung các phạm trù cơ bản của đạo đức học
|
35 |
1 |
Phạm trù lẽ sống (ý nghĩa
cuộc sống) |
35 |
2 |
Phạm trù hạnh phúc |
40 |
3 |
Phạm trù nghĩa vụ đạo đức |
45 |
4 |
Phạm trù lương tâm |
49 |
5 |
Phạm trù thiện và ác |
53 |
Chương III |
Những nguyên tắc của đạo đức xã hội chủ nghĩa |
59 |
I |
Đạo đức xã hội chủ nghĩa và vai trò của nó trong
việc xây dựng xã hội chủ nghĩa |
59 |
1 |
Khái niệm đạo đức xã hội
chủ nghĩa |
59 |
2 |
Vai trò của đạo đức xã hội
chủ nghĩa trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa |
60 |
II |
Một số nguyên tắc cơ bản của đạo đức xã hội chủ
nghĩa |
62 |
1 |
Lòng trung thành với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội |
63 |
2 |
Chủ nghĩa tập thể xã hội
chủ nghĩa là cơ sở của đạo đức xã hội chủ nghĩa |
66 |
3 |
Lao động tự giác, sáng tạo |
69 |
4 |
Chủ nghĩa yêu nước kết hợp
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân |
72 |
5 |
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội
chủ nghĩa |
76 |
Chương IV |
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng |
79 |
I |
Nền tảng hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh |
79 |
1 |
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh được hình thành trên nền tảng tinh hoa truyền thống đạo đức dân tộc |
79 |
2 |
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh kế thừa văn hoá đạo đức phương Đông và phương Tây |
81 |
3 |
Hồ Chí Minh tiếp thu quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tấm gương đạo đức mà các ông để lại |
83 |
4 |
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh được bổ sung, hoàn thiện thông qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và nhân
cách Hồ Chí Minh |
84 |
II |
Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh |
86 |
1 |
Quan điểm của Hồ Chí Minh
về vai trò của đạo đức cách mạng đối với người cán bộ cách mạng |
86 |
2 |
Quan điểm của Hồ Chí Minh
về những phẩm chất đạo đức cơ bản của người cán bộ cách mạng |
88 |
3 |
Tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh và học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh |
94 |
III |
Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cách mạng |
97 |
1 |
Rèn luyện bền bỉ suốt đời
thông qua hoạt động thực tiễn |
97 |
2 |
Nói đi đôi với làm, nêu tấm
gương đạo đức |
99 |
3 |
Xây đi đôi với chống |
101 |
Chương V |
Đạo đức người công an cách mạng và vấn đề rèn luyện
đạo đức người công an trong điều kiện hiện nay |
103 |
I |
Tính tất yếu của việc rèn luyện đạo đức đối với
người công an nhân dân |
103 |
1 |
Phẩm chất đạo đức giữ vị
trí hàng đầu trong nhân cách người công an nhân dân |
103 |
2 |
Xuất phát từ đặc điểm, tính
chất công tác và nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho lực lượng công an nhân
dân |
103 |
3 |
Xuất phát từ yêu cầu, đòi
hỏi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã
hội trong giai đoạn mới của cách mạng |
105 |
4 |
Xuất phát từ thực tiễn kinh
nghiệm và yêu cầu xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhụê và từng bước hiện đại |
106 |
II |
Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người công an
nhân dân theo 6 điều Bác dạy về Tư cách người công an cách mạng |
108 |
1 |
Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa
của 6 điều Bác Hồ dạy về Tư cách người công an cách mạng |
108 |
2 |
Nội dung cơ bản của 6 điều
Bác Hồ dạy về Tư cách người công an cách mạng |
110 |
III |
Một số yêu cầu phẩm chất đạo đức theo lĩnh vực công
tác của cán bộ công an nhân dân |
123 |
IV |
Rèn luỵện phẩm chất đạo đức người cán bộ công an
nhân dân trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay |
129 |
1 |
Tiếp tục học tập, quán
triệt 6 điều Bác dạy về "Tư cách người công an cách mạng" trong
tình hình mới |
129 |
2 |
Chú trọng công tác cán bộ
nhằm xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh |
130 |
3 |
Tăng cường công tác lãnh
đạo, quản lý của thủ trưởng cấp uỷ, công an các cấp, sự giám sát, giúp đỡ của
nhân dân đối với cán bộ chiến sỹ công an |
132 |
4 |
Thường xuyên tổ chức sinh
hoạt chính trị, đẩy mạnh công tác đấu tranh phê và tự phê trong việ c xây
dựng đạo đức người công an cách mạng |
135 |
[1]
M.Arkhanghenxki: Các bàigiảng về đạo đức
học Mác - Lênin, Nxb “Trường cao đẳng”, Matxcơva, 1974 (tiếng Nga).
[2] C.Mác và
Ph.ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà
Nội, 1994, tập 20, tr.137.
[3] C.Mác và
Ph.ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà
Nội, 1994, tập 20, tr.136.
[4] C.Mác và
Ph.ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà
Nội, 1994, t.20, tr.137.
[5] C.Mác và
Ph.ăngghen, Tuyển tập, (gồm 6 tập), t.6, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1983, tr. 271.
[6] C.Mác và
Ph.ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà
Nội, 1995, t.4, tr.626.
[7] C.Mác và
Ph.ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà
Nội, 1994, tập 20, tr.135.
[8] Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997,
tr.158.
[9]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.tr.106
[10] : Sđd
tr. 136
[11]
A.S
Makarenko, Bàn về giáo dục cộng sản chủ nghĩa, 1956, tr.12.
[12]V.G. Bielin xki: Trước tác của A. PusKin. Bài báo 11,
Toàn tập, 1955. Tập 7 tr. 193
[13]
M.I Kalilin - Bàn về giáo dục cộng sản chủ
nghĩa, 1952
[14]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.tr.125
[16]
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb
CTGQ, Hà Nội, 2005, tr. 367.
[17] V.I.Lênin:
Toàn tập, tập 37, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2005, tr. 226.
[18] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 6 NXB CTQG H. 1995 Trang 171 – 172.
[19] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 6, NXBCTQG – H.1995 Trang 320 - 321
[20] Hồ Chí
Minh Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, NXBVH, H.1981 Trang 476 – 477.
[21] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 2 NXBCTQG H. 1995 TRANG 270, 274.
[22] Như
trên.
[23] Như
trên.
[24] Dẫn
theo Phan Văn Các – Nho giáo xưa và nay – NXBKHXH 1991.
[25] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 2 NXBCTQG H. 1995 Trang 268.
[26] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 2 NXBCTQG H. 1995 Trang 554.
[27] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 5 NXBCTQG H. 1995 Trang 252-253.
[28] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBCTQG H. 1996 Trang 283.
[29] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBCTQG H. 1996 Trang 283.
[30] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 12 NXBCTQG H. 1996 Trang 557-558.
[31] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 1 NXBCTQG H. 1995 Trang 295.
[32] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBCTQG H. 1996 Trang 172.
[33] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBCTQG H. 1996 Trang 285
[34] Hồ Chí
Minh Về vấn đề cán bộ Vxb ST H. 1975 Trang 106.
[35] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 5 NXB ST H. 1985 Trang 243 – 246.
[36] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5 NXB ST H. 1985
Trang 243 – 246.
[37] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 5 NXB ST H. 1985 Trang 243 – 246.
[38] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBCTQG H. 1996 Trang 293.
[39] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 6 NXBCTQG H. 1995 Trang 121,122.
[40] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 8 NXBCTQG H. 1996 Trang 236.
[41] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 7 NXBCTQG H. 1995 Trang 39-40.
[42] Văn
kiện Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam NXBCTQG H. 2006 Trang
65.
[43] Như trên
Trang 136.
[44] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 10 NXBCTQG H. 1996 Trang 312.
[45] BCHTW
ĐCSVN- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trang 50.
[46] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 1 NXBCTQG H. 1995 Trang 263.
[47] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 5 NXBCTQG H. 1995 Trang 552.
[48] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 6 NXBST 1986 Trang 121-122.
[49] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 8 NXBST 1989 Trang 33.
[50] Nghị quyết 40 BCT Về nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác công an trong tình hình mới
[51] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9 NXBST 1989 Trang
488, 489.
[52] Dảng
Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX NXBCTQG
2001. Trang 38.
[53] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 8 NXBST 1989 Trang 33.
[54] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 4 NXBST 1984 Trang 50
[55] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập NXBST 1987 Trang 809.
[56] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBST 1989 Trang 630, 631.
[57] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 9 NXBST 1989 Trang 186.
[58] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập NXBST 1989 Trang 126.
[59] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập NXBST 1987 Trang 169.
[60] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 5 NXBST 1985 Trang 77-79.
[61] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 5 NXBST 1985 Trang 689.
[62] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 8 NXBST 1989 Trang 431.
[63] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 10 NXBST 1989 Trang 387.
[64] Chủ
tịch Hồ Chí Minh với công tác an ninh, trật tự, NXB CAND, Hà Nội, 1990, tr.73
[65] Hồ Chí
Minh: Toàn tập, T.9, NXBST, HN, 2002, tr.447
[66] Nói
chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10 (1-1956), Sách đã dẫn, T.8,
tr.118
[67] Nói
chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc lần 10 (1-1956), Sđd, T8, tr,118
[68] Gửi Hội
nghị Tình báo (4-1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ANTT, Sđd, tr.15
[69] Chủ
tịch Hồ Chí Minh với công tác an ninh, trật tự, Nxb CAND, Hà Nội, 1990, tr.101
- 102
[70] Bài nói
chuyện với Hội nghị tổng kết công tác cảnh vệ, 2- 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh về
ANTT, Sđd, tr.165
[71] Bài nói
chuyện tại Hội nghị mừng công của Trung đoàn 600, 21-12-1965, Chủ tịch Hồ Chí
Minh về ANTT, Sđd, tr.170
[72] Nói
chuyện với Đảng đoàn Bộ Công an, 8-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh về ANTT, Sđd,
tr.45
[73] Quản lý
hộ khẩu, 10-2-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh về ANTT, Sđd, tr.85
[74] Gửi Hội
nghị Tình báo (4-1919), Chủ tịch Hồ Chí Minh về ANTT, Sđd, tr.17
[75] Gửi Hội
nghị Tình báo (4-1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh về ANTT, Sđd, tr.145
[76] Thư gửi
Hội nghị Tình báo (6-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ANTT, Sđd, tr.36
[77] Chỉ thị
số 23 ngày 27/3/2003 của Ban bí thư TƯ Đảng về đẩy mạnh, nâng cao, tuyên truyền
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới
[78] Hồ Chí
Minh, Sđd, tập 6, Hà Nội, 1995, tr.366
[79] Hồ Chí
Minh, Sđd, tập 5, Hà Nội, 1995, tr.407
[80] Hồ Chí
Minh, Sđd, tập 9, tr.284
[81] Hồ Chí
Minh, Sđd, tập 9, tr.492
[82] Chủ
tịch Hồ Chí Minh với công tác an ninh trật tự, Nxb CAND, Hà Nội, 1990, tr.99
[83] Chủ
tịch Hồ Chí Minh với công tác an ninh trật tự, Nxb CAND, Hà Nội, 1990, tr.99
[84] Hồ Chí
Minh, sách đã dẫn, Tập 9, tr.293
[85] Hồ Chí
Minh, Sđd, tập 6, tr.366
[86] Hồ Chí
Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.10
[87] Hồ Chí
Minh, Sđd, tập 9, tr.58
0 comments:
Đăng nhận xét