TIN MỚI NHẤT

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2022

GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN





                                                                              LỜI NÓI ĐẦU

Triết học Mác - Lênin là môn học tiên quyết và bắt buộc trong chương trình đào tạo hệ đại học, cao đẳng trên toàn quốc. Theo Hướng dẫn số 3056/BGD & ĐT - GDDH ngày 19 tháng 7 năm 2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thay đổi nội dung chương trình, giáo trình các môn lý luận chính trị, môn Triết học Mác - Lênin có sự thay đổi về thời lượng từ 2 tín chỉ tăng lên 3 tín chỉ và thực hiện việc giảng dạy từ năm học 2019 - 2020. Tuy nhiên, trong năm học này Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa xuất bản giáo trình môn học áp dụng cho các trường đại học và cao đẳng thực hiện giảng dạy. Trước tình hình trên, Học viện An ninh nhân dân tổ chức biên soạn Tập bài giảng môn Triết học Mác - Lênin dùng cho hệ đào tạo để đảm bảo việc giảng dạy theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Cuốn sách được kết cấu thành 3 chương theo Chương trình đào tạo môn Triết học Mác - Lênin của Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành năm 2019. Trên cơ sở chương trình đào tạo, Tập thể tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội đồng lý luận trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, và các cơ quan khác biên soạn như: 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác  - Lênin (dành cho sinh viên Đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; 2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; 3. Hội đồng lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội; 4. Mai Diệu Anh (chủ biên), Hà Vũ Long (2017), Hỏi và đáp về triết học Mác-Lênin, Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội;...

Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin phù hợp với học viên Học viện An ninh nhân dân, cuốn sách có bổ sung nội dung vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam và vận dụng trong công tác Công an nhằm góp phần định hướng thế giới quan, phương pháp luận cho người học, tạo cơ sở lý luận để tiếp cận các khoa học cụ thể trong chương trình đào tạo của Học viện.

Trong quá trình biên soạn, mặc dù có nhiều cố gắng song không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy Tập thể tác giả mong muốn nhận được nhiều góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học để cuốn sách này có chất lượng tốt hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

TẬP THỂ TÁC GIẢ BIÊN SOẠN

 

 

 

 


 

CHƯƠNG I

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1. Khái lược về triết học

a. Nguồn gốc của triết học

Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.

* Nguồn gốc nhận thức

Triết học ra đời gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực nhận thức khái quát của con người. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn, có khả năng tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quy luật, quan điểm, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học xuất hiện.

* Nguồn gốc xã hội

Triết học ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ sản xuất xã hội tương đối cao, phân công lao động xã hội hình thành, của cải tương đối thừa dư, tư hữu hóa tư liệu sản xuất được luật định, giai cấp phân hóa rõ và mạnh, nhà nước ra đời. Trong một xã hội như vậy, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay, tầng lớp trí thức xuất hiện, đủ năng lực tư duy để trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học thuyết triết học. Với sự tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, của giai cấp và nhà nước, triết học, tự nó đã mang tính giai cấp sâu sắc, nó có vai trò phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.

b. Khái niệm Triết học

Triết học ra đời từ rất sớm, khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN với những thành tựu rực rỡ đạt được trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp thời cổ đại.

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng triết học đều được xem là hình thái cao nhất của tri thức, là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Theo đó, triết học là một hình thái ý thức xã hội, có khách thể nghiên cứu là thế giới trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó, nhằm tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy. Tri thức triết học mang tính hệ thống, lôgíc và trừu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại.

c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử

Cùng với quá trình phát triển của xã hội, của nhận thức và của bản thân triết học, đối tượng của triết học cũng thay đổi trong các trường phái khác nhau.

Ở Thời kỳ Hy lạp Cổ đại, triết học đã được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao hàm trong nó tri thức của tất cả các lĩnh vực. Triết học thời kỳ này được gọi là nền triết học tự nhiên.

Ở Tây Âu thời Trung cổ, khi quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì nền triết học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. Đối tượng của triết học này tập trung vào các chủ đề như niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục, mặc khải hoặc chú giải các tín điều phi thế tục…

Thế kỷ XV - XVI, sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng những thành tựu khác của khoa học thực nghiệm dẫn đến đòi hỏi ra đời các bộ môn khoa học chuyên ngành, đồng thời thúc đẩy cuộc đấu tranh giữa khoa học, triết học duy vật với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật, các học thuyết triết học duy tâm cũng xuất hiện như Cantơ và Hêghen, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.

Như vậy, sự phát triển của các khoa học chuyên ngành từng bước xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa học”. Triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng thể hiện tham vọng đó.

Đến đầu thế kỷ XIX, hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

d. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan

* Thế giới quan

Có thể định nghĩa: Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan.

Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nên cũng có nhiều cách phân loại khác nhau. Chẳng hạn, thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học; theo những căn cứ phân chia khác, thế giới quan còn được phân loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc người, hoặc thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan thông thường…[1].

Thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và trong toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.

* Hạt nhân lý luận của thế giới quan

Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bởi thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác như thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại… triết học là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường…, triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.

Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.

2. Vấn đề cơ bản của triết học

a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học

Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”[2].

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.

Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?

Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, thuyết Có thể biết và thuyết Không thể biết,…

b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà  triết học thành hai trường phái lớn, đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

- Chủ nghĩa duy vật: Có quan điểm cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người. Các nhà duy vật giải thích nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân vật chất.

Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức cơ bản đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa duy vật, là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra những kết luận còn mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy còn hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật thời kỳ này về cơ bản là đúng, không viện đến thần thánh hay các lực lượng siêu nhiên.

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ nên chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới. Tuy còn những hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa các học thuyết triết học trước đó và khái quát những thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của các hình thức trước đó và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.

- Chủ nghĩa duy tâm: Có quan điểm cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên. Các học thuyết của họ chủ trương giải thích toàn bộ thế giới này bằng các nguyên nhân tư tưởng, tinh thần.

Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, các tôn giáo thường sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.

Về phương diện nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ việc tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức của con người. Về nguồn gốc xã hội, sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều lực lượng xã hội đã từng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.

Trong lịch sử triết học, học thuyết nào thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là bản nguyên của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là nhất nguyên luận. Song, có những học thuyết triết học giải thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất và tinh thần được gọi là nhị nguyên luận.

c. Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết Bất khả tri)

Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học.

Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi là thuyết Khả tri. Thuyết khả tri khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật.

Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là thuyết không thể biết (thuyết bất khả tri). Theo thuyết này, con người, về nguyên tắc, không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Theo họ, kết quả nhận thức của con người chỉ là hình thức bề ngoài, không phải là cái tuyệt đối tin cậy. Đại biểu cho thuyết bất khả tri là Hium và Cantơ. Hium quan niệm tri thức con người chỉ dừng ở trình độ kinh nghiệm. Chân lý phải phù hợp với kinh nghiệm. Cantơ với thuyết về Vật tự nó, cho rằng con người không thể có được những tri thức đúng đắn, chân thực, bản chất về những thực tại nằm ngoài kinh nghiệm có thể cảm giác được.

 

II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin

a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác

Triết học Mác ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại, phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thời đại. Đó cũng là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen.

* Điều kiện kinh tế - xã hội

Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.

Những năm 40 của thế kỷ XIX, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước châu Âu được củng cố vững chắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất cũng làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố. Những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.

 Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng cho sự ra đời triết học Mác.

Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản vốn mang tính chất đối kháng càng phát triển làm nguyên nhân nổ ra những cuộc đấu tranh giai cấp. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) từ năm 1835 đến năm 1848, cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1844,...

Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài chính trị cho thấy đây chính là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.

 Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.

Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đặt ra đã được phản ánh bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau, sản sinh ra nhiều biến thể của chủ nghĩa xã hội như: "chủ nghĩa xã hội phong kiến", "chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản", "chủ nghĩa xã hội tư sản",...

Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử đã được sáng tạo nên bởi C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận.

* Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên

Nguồn gốc lý luận

Triết học cổ điển Đức, đặc biệt những “hạt nhân hợp lý” trong triết học của Hegel và Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hegel. Trong khi phê phán tính chất duy tâm của triết học Hegel, các ông đã kế thừa và cải tạo tư tưởng biện chứng của nó để xây dựng nên lý luận mới - phép biện chứng duy vật. Mặt khác, các ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình của nó để xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau.

Sự hình thành triết học Mác còn diễn ra trong sự tác động lẫn nhau và thâm nhập vào nhau với những tư tưởng, lý luận về kinh tế chỉnh trị cổ điển của Adam Smith (A.Xmit), David Ricardo (Đ. Ricacđô) và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và Sáclơ Phuriê.

Tiền đề khoa học tự nhiên

Đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng như định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn.. Những phát minh này cung cấp cơ sở khoa học để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của phép biện chứng Cổ đại, đồng thời thoát khỏi vỏ bọc thần bí của phép biện chứng duy tâm.

Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, mà còn vì những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.

* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác

C.Mác (1818 - 1883), với một trí tuệ uyên bác bao trùm nhiều lĩnh vực và một nhãn quan chính trị đặc biệt nhạy cảm; C.Mác đã vượt qua những hạn chế lịch sử của các nhà triết học đương thời để giải đáp thành công những vấn đề bức thiết về mặt lí luận của nhân loại.

Ph.Ăngghen (1820 - 1895), ngay từ thời trai trẻ đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và nghị lực nghiên cứu, học tập phi thường. C.Mác tìm thấy ở Ph.Ăngghen một người cùng tư tưởng, một người đồng chí trợ lực gắn bó mật thiết trong sự nghiệp chung.

Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội đương thời, nhưng hai ông đều sớm tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của nhân loại. Bản thân hai ông đều tích cực tham gia hoạt động thực tiễn. Sống trong phong trào công nhân, hai ông đã đứng về phía những người cùng khổ, đấu tranh không mệt mỏi vì lợi ích của họ, trang bị cho họ một công cụ lý luận sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực.

b. Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Mác

* Thời kỳ chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 - 1844)

Trong giai đoạn này, bằng các hoạt động viết báo, tìm hiểu và tham gia tích cực vào phong trào công nhân, đấu tranh chống lại chính quyền Phổ và giai cấp tư sản, phê phán có kế thừa tư tưởng triết học của Hêghen và Phoiơbắc đã giúp C. Mác và Ph.Ăngghen chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trượng cộng sản cách mạng. Các bài viết tiêu biểu trong thời kỳ này như: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel của C.Mác, Phác thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị học, Tình cảnh nước Anh,... của Ph.Ăngghen.

* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 - 1848)

Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết học mới với nhiều tác phẩm lớn ra đời. Tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844 phê phán triết học duy tâm của Hegel và kinh tế chính trị học cổ điển của Anh, luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển xã hội. Gia đình thần thánh (1845) là tác phẩm chứa đựng quan niệm hầu như đã hoàn thành của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản. Luận cương về Feuerbach ra đời năm 1845 khẳng định vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội và sứ mệnh "cải tạo thế giới" của triết học Mác. Hệ tư tưởng Đức được C.Mác và Ph.Ăngghen viết vào cuối năm 1845 - đầu năm 1846 trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống - xem xét lịch sử xã hội xuất phát từ con người hiện thực. Tác phầm Sự khốn cùng của triết học được C.Mác viết năm 1847 tiếp tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đặc biệt, năm 1848, C.Mác cùng Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trình bày thống nhất các quan điểm triết học với quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội.

* Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lí luận triết học (1848 - 1895)

Trong thời kỳ này, Mác viết hàng loạt tác phẩm quan trọng. Hai tác phẩm: Đấu tranh giai cấp ở Pháp Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp (1848 - 1849). Các năm sau, cùng với những hoạt động tích cực để thành lập Quốc tế I, Mác đã tập trung viết nhiều tác phẩm như bộ Tư bản (tập 1 xuất bản 9/1867), Góp phần phê phán kinh tế chính trị học (1859), Nội chiến ở Pháp năm 1871 và viết tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô ta năm 1875.

Trong khi đó, Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu tranh chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa Mác và khái quát những thành tựu của khoa học. Với các tác phẩm như: Biện chứng của tự nhiên Chống Đuyrinh, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884) và Lútvích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886)... Ph.Ăngghen đã trình bày triết học Mác dưới dạng một hệ thống lí luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh. Sau khi Mác qua đời, Ph.Ăngghen đã hoàn chỉnh và xuất bản hai quyển còn lại trong bộ Tư bản của Mác.

c. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện

Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học nhân loại. Điều này được thể hiện trên các phương diện cơ sản sau:

C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Trước Mác, các học thuyết triết học duy vật cũng đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng. Song, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau. Với việc kết hợp giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí, Mác và Ph.Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử, đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

C.Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học.

Với việc cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật cũ và phê phán những quan điểm duy tâm về lịch sử xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã "làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học"[3].

C.Mác và Ph.Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng tạo ra triết học duy vật biện chứng - một triết học chân chính khoa học.

Phương thức theo đó C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra một triết học hoàn toàn mới, chính là việc các ông đã khám phá ra bản chất, vai trò của thực tiễn, sự thống nhất giữa quá trình phát triển lí luận với thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động.

Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của nó trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại cũng có sự biến đổi rất căn bản. Giờ đây, triết học không chỉ có chức năng giải thích thế giới, mà còn phải trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới.

Lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã công khai tính giai cấp của triết học, biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. "Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình"[4].

Ở triết học Mác, tính đảng và tính khoa học thống nhất hữu cơ với nhau. Càng thể hiện tính đảng - duy vật biện chứng triệt để, thì càng mang bản chất khoa học và cách mạng sâu sắc, và ngược lại.

 Triết học Mác ra đời cũng đã chấm dứt tham vọng biến triết học thành "khoa học của mọi khoa học", xác lập mối quan hệ khăng khít giữa triết học với khoa học cụ thể.

Một trong những đặc trưng nổi bật của triết học Mác là tính sáng tạo. Bởi lẽ đây là một học thuyết phán ánh thế giới vật chất trong trạng thái vận động phát triển không ngừng. Do đó, triết học Mác là một hệ thống mở luôn luôn được bổ sung, phát triển bởi những thành tựu khoa học và thực tiễn.

Triết học Mác mang trong mình tính nhân đạo cộng sản. Đó chính là lí luận khoa học xuất phát từ con người, vì mục tiêu giải phóng con người, trước hết là giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức bóc lột, phát triển tự do, toàn diện con người.

Như vậy, với việc bổ sung những đặc tính mới, C.Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra một học thuyết triết học cao hơn, hoàn bị hơn - triết học duy vật biện chứng, trở thành một khoa học chân chính, vũ khí tinh thần cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng xã hội.

d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác

V.I.Lênin là người đã kế tục trung thành, bảo vệ và phát triển sáng tạo cả ba bộ phận của chủ nghĩa Mác, đáp ứng đòi hỏi khách quan của thời đại mới.

* Hoàn cảnh lịch sử V.I.Lênin phát triển Triết học Mác

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc; nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng thế giới và sự phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nhiệm vụ nghiên cứu giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa tư bản; tiếp tục làm giàu và phát triển triết học Mác đã được V.I.Lênin giải quyết một cách trọn vẹn trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những phát minh lớn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đã làm đảo lộn quan niệm về thế giới. Lợi dụng tình hình đó, những người theo chủ nghĩa duy tâm, cơ hội, xét lại... đã tấn công lại chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác. V.I.Lênin đã thực hiện việc luận giải những thành tựu mới của khoa học tự nhiên; phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử phù hợp với điều kiện mới.

Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã tiến hành một cuộc tấn công điên cuồng trên lĩnh vực tư tưởng, nhiều trào lưu tư tưởng lý luận mang màu sắc duy tâm xuất hiện, muốn thay thế triết học Mác. Vì thế, việc bảo vệ và phát triết học Mác cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới đã được V.I.Lênin thực hiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

* V.I.Lênin trở thành người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới

V.I.Lênin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại thành phố Ximbiếcxcơ của nước Nga. Ông là người mở ra thời kỳ mới trong sự phát triển của lý luận mácxít, làm phong phú thêm tất cả các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.

Thời kỳ 1893 - 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác và chuẩn bị thành lập đảng mácxít ở Nga hướng tới cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.

Trong thời kỳ này, V.I.Lênin đã đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, phương pháp siêu hình của phái Dân túy, bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật, nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội, phát triển nhiều quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

Từ 1907 - 1917 là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ này, để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trước sự tấn công từ nhiều phía, V.I.Lênin viết nhiều tác phẩm như: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908), Bút ký triết học (1914 - 1916), Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1913), Nhà nước và cách mạng (1917). Các tác phẩm trên tập trung khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, phê phán triết học duy tâm tư sản và chủ nghĩa xét lại, bảo vệ chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận duy vật biện chứng về nhận thức, phép biện chứng duy vật, phân tích chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa chuẩn bị mặt lý luận cho cuộc cách mạng vô sản đang đến gần.

Từ 1917 - 1924, Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sau Cách mạng Tháng mười năm 1917, nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh chống mọi loại kẻ thù của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.

Các tác phẩm được Lênin viết trong thời kỳ này như: Sáng kiến vĩ đại, Bệnh ấu trĩ "tả khuynh" trong phong trào cộng sản, Chính sách kinh tế mới,... Với những tác phẩm này, Lênin đã góp phần hoàn thiện, làm phong phú thêm triết học Mác trên các lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp, mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng, vai trò lãnh đạo của Đảng trong thiết lập chuyên chính vô sản và cải tạo xã hội chủ nghĩa, lý luận về tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng, về thời kỳ quá độ, đặc biệt là chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp, vấn đề liên minh công nông.

Như vậy, chủ nghĩa Lênin không phải là “sự giải thích” chủ nghĩa Mác mà là sự bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác, trong đó có triết học trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản.

* Thời kỳ từ 1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các Đảng Cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển

Từ sau khi V.I.Lênin mất đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các đảng cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển. Tuy nhiên, quá trình phát triển triết học Mác - Lênin cũng gặp không ít khó khăn do những sai lầm, khuyết điểm trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của thời đại ngày nay đòi hỏi các đảng cộng sản vận dụng thế giới quan, phương pháp luận mácxít để tổng kết thực tiễn khái quát lý luận định ra đường lối, chiến lược, sách lược phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, đồng thời có đóng góp quan trọng vào sự phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện mới.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có biến động nhanh chóng và phức tạp, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc triết học Mác - Lênin. Việc đấu tranh bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử mới đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đấu tranh chống các tư tưởng cơ hội, xét lại, khắc phục bệnh giáo điều, duy ý chí; trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu làm phong phú tri thức của con người về thế giới.

2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin

a. Khái niệm triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.

Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, xã hội và tư duy. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là hình thức phát triển cao nhất trong lịch sử triết học - chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biện chứng duy vật.

Triết học Mác - Lênin trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo xã hội.

b. Đối tượng của triết học Mác - Lênin

Khắc phục những hạn chế và đoạn tuyệt với những quan niệm sai lầm của các hệ thống triết học khác, triết học Mác - Lênin xác định đối tượng nghiên cứu là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Vượt qua những hạn chế lịch sử của các hệ thống triết học khác, triết học Mác - Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình không chỉ những quy luật phổ biến của tự nhiên nói chung, mà còn bao gồm cả những quy luật phổ biến của lịch sử xã hội.

c. Chức năng của triết học Mác - Lênin

Chức năng thế giới quan

Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức, nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.

Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Nó là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản khoa học.

Chức năng phương pháp luận

Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, nguyên tắc xuất phát có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là “đơn thuốc vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn xã hội.

3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay và ý nghĩa trong công tác Công an

* Trong đời sống xã hội, Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn

Những nguyên lý và quy luật cơ bản của triết học Mác - Lênin có giá trị định hướng quan trọng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, tránh được những sai lầm, mò mẫm.

Xuất phát từ lập trường triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp chặt chẽ tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (sự hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề) - là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động cụ thể của mình.

Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.

Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đòi hỏi con người khi bước vào thế kỷ XXI cần có những thay đổi mang tính cơ bản và sâu sắc về mặt nhận thức. Mặt khác, triết học Mác - Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận - phương pháp luận cho các phát minh khoa học hiện đại.

Cùng với sự phát triển của khoa học và cách mạng hiện đại, xu thế toàn cầu hoá đang tăng lên không ngừng. Trong bối cảnh đó, triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển của xã hội hiện đại.

Triết học Mác - Lênin còn là lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.

* Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận vì vậy tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật.

Thế giới quan triết học Mác - Lênin giúp chúng ta đánh giá đúng đắn bối cảnh mới của thời đại, tình hình thế giới và trong nước. Từ đó, giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, khi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ.

Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua. Đó là việc giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới.

* Đối với công tác Công an, triết học Mác - Lênin cung cấp thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn trong nhận thức và giải quyết các nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân

Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam muốn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho cần phải được trang bị một thế giới quan khoa học, một lập trường duy vật đúng đắn, triệt để của triết học Mác - Lênin để làm cơ sở xem xét, đánh giá đúng các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người liên quan đến nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự.

Quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin như nguyên tắc khách quan, phát huy tính năng động chủ quan, nguyên tắc toàn diện, lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm thực tiễn, quan điểm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân giúp cho việc xây dựng các chủ trương, nghị quyết của Ngành Công an đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan, tính hiệu quả cao và hướng tới mục tiêu phát triển chung của con người và xã hội.

Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo đúng đắn, các mặt công tác của lực lượng Công an nhân dân được triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

 Nhận thức vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng Công an nhân dân cần nâng cao trách nhiệm học tập, nghiên cứu triết học Mác - Lênin nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, hiểu sâu sắc bản chất khoa học, cách mạng và giá trị nhân văn của nó, từ đó nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình học tập, nghiên cứu triết học Mác - Lênin phải gắn liền với việc vận dụng sáng tạo vào thực tiễn công tác, bằng thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận. Mặt khác, lực lượng Công an tích cực tham gia bảo vệ, tuyên truyền các giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin tới đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc triết học Mác - Lênin, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới.

CHƯƠNG 2

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất

a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về phạm trù vật chất

Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại hiện thực của giới tự nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do "sự tha hoá" của "tinh thần thế giới". Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật, hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức. Như vậy, về thực chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất. Thế giới quan duy tâm rất gần với thế giới quan tôn giáo và tất yếu dẫn họ đến với thần học.

Quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy vật trước C. Mác đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này. Các nhà duy vật thời Cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể của nó và xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài, chẳng hạn, nước (Thales), lửa (Heraclitus), không khí (Anaximenes); đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ), Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (Ngũ hành - Trung Quốc). Một số trường hợp đặc biệt, họ quy vật chất (không chỉ vật chất mà thế giới) về những cái trừu tượng như Không (Phật giáo), Đạo (Lão Trang). Hay như nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximander cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn, đó là Apeirôn. Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất của hai nhà triết học Hi Lạp cổ đại là Lơxíp (khoảng 500 - 440 tr.CN) và Đêmôcrít (khoảng 427 - 374 tr.CN). Cả hai ông đều cho rằng, vật chất là nguyên tử.

Thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV) khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự phát triển mạnh của cơ học, của công nghiệp. Đến thế kỷ XVII -XVIII, chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết học và khoa học tự nhiên thời kỳ Phục Hưng và Cận đại (thế kỷ XV - XVIII) như Galilê, Bêcơn, Hốpxơ, Xpinôda, Hônbách, Điđơrô, Niutơn... tiếp tục nghiên cứu, khẳng định trên lập trường duy vật. Đặc biệt, những thành công kỳ diệu của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và thuộc tính của các vật thể vật chất vĩ mô - bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên) và việc khoa học vật lý thực nghiệm chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng làm cho quan niệm trên đây được củng cố thêm.

Song, do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên nhìn chung các nhà triết học duy vật thời kỳ cận đại đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn. Họ thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần tuý cơ học; xem vật chất, vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối liên hệ nội tại với nhau... Cũng có một số nhà triết học thời kỳ này cố gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử (chẳng hạn như Đềcáctơ, Cantơ...) nhưng không nhiều và không thể làm thay đổi căn bản cái nhìn cơ học về thế giới, không đủ đưa đến một định nghĩa hoàn toàn mới về phạm trù vật chất.

b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất

Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử. Năm 1898 - 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và rađium. Những phát hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng, nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hoá. Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp và năm 1916, Thuyết Tương đối Tổng quát của A. Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Thế giới vật chất không có và không thể có những vật thể không có kết cấu, tức là không thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biến để đặc trưng chung cho vật chất.

Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm. V.I.Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm vật lý học” và coi đó là “một bước ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng thành”, là “một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác”. Để khắc phục cuộc khủng hoảng này; V.I.Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”[5].

c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất

Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen về vấn đề vật chất, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm (đang lầm lẫn hoặc xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật), qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy vật. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác[6]. Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến nay vẫn được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.

Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.

Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.

Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.

Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại. Ngày nay, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới mẻ càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của V.I.Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó mà, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại.

Ý nghĩa khoa học của quan niệm vật chất của Triết học Mác - Lênin.

- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

- Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.

- Quán triệt nguyên tắc khách quan – xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan...

- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội – đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất xã hội; tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.

d. Các hình thức tồn tại của vật chất

* Vận động

Sự tồn tại của thế giới vật chất hết sức phong phú và phức tạp. Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”[7].

 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Sự tồn tại của vật chất là tồn tại bằng cách vận động, tức là vật chất dưới các dạng thức của nó luôn luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh hướng, các bộ phận khác nhau, đối lập nhau. Trong hệ thống ấy, chúng luôn tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và chính sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau ấy gây ra sự biến đổi nói chung, tức vận động. Như thế, vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến.

Những hình thức vận động cơ bản của vật chất

Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội. Cơ sở của sự phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và không thể quy về hình thức vận động thấp. Việc phân chia các hình thức vận động cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa học, đồng thời cũng cho phép vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương quan giữa các hình thức vận động của vật chất. Trong tương lai, khoa học hiện đại có thể sẽ phát hiện ra những trình độ tổ chức vật chất mới, và do đó, cũng có thể tìm ra những hình thức vận động mới, cho nên có thể và cần phải phát triển, bổ sung cho sự phân loại nói trên của Ph.Ăngghen, mặc dù những nguyên tắc căn bản của sự phân loại đó vẫn giữ nguyên giá trị.

Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động. Tuy nhiên, những kết cấu vật chất đặc thù bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản nhất định và khi đó các hình thức vận động khác chỉ tồn tại như những nhân tố, những vệ tinh của hình thức vận động cơ bản. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên hệ giữa các hình thức vận động, vừa phải phân biệt sự khác nhau về chất của chúng.

Vận động và đứng im.

Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất. Như vậy, đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời điểm, chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó, chứ không phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động. Hơn nữa, đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.

Mặc dù mang tính chất tương đối tạm thời, nhưng đứng im lại là hình thức “chứng thực” sự tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất. Không có đứng im thì không có sự ổn định của sự vật, và con người cũng không bao giờ nhận thức được chúng. Không có đứng im thì sự vật, hiện tượng cũng không thể thực hiện được sự vận động chuyển hoá tiếp theo. Vận động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối.

* Không gian và thời gian

 Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó, không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.

Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không - thời gian. Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.

Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất.

Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm đó đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

e. Tính thống nhất vật chất của thế giới

* Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới

Theo nghĩa chung nhất, tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới xung quanh con người. Khẳng định sự tồn tại là gạt bỏ những nghi ngờ về tính không thực, sự hư vô, tức là gạt bỏ sự “không tồn tại”.

Thế giới quanh ta tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của thế giới là hết sức đa dạng. Vì thế, tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Song, tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Sự khác nhau về nguyên tắc giữa quan niệm duy vật và quan niệm duy tâm không phải ở việc có thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới, mà là ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng, cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó.

* Thế giới thống nhất ở tính vật chất

Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:

 - Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh.

 - Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.

 - Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.

Quan niệm trên đây của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được cuộc sống hiện thực của con người và toàn bộ sự phát triển của khoa học xác nhận. Thế giới bao gồm cả tự nhiên và xã hội về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất. Ph.Ăngghen kết luận: “Tính thống nhất thực sự của thế giới là tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”[8].

2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

a. Nguồn gốc của ý thức

Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học - thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, có nhiều nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó hai yếu tố cơ bản nhất là bộ óc ngườimối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.

Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Óc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc ng­ười hoạt động bình thường và ý thức là không thể tách rời. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường. Sinh lý và ý thức là hai mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin.

Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới vật chất từ thấp đến cao và cao nhất là trình độ phản ánh - ý thức. Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Lịch sử tiến hoá của thế giới vật chất đồng thời là lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất. Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức phản ánh của giới tự nhiên vô sinh có kết cấu vật chất đơn giản, đặc trưng trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh của giới tự nhiên hữu sinh với kết cấu vật chất phức tạp hơn so với giới tự nhiên vô sinh. Đó là trình độ trong các cơ thể sống có tính định h­ướng, lựa chọn, giúp cho các cơ thể sống thích nghi với môi trường để tồn tại. Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật có hệ thần kin trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kin thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện. Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.

Tuy vậy, sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do nguồn gốc xã hội. Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức; trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao độngngôn ngữ.

Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá trình vừa làm thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động,... của nó qua những hiện tượng mà con người có thể quan sát được.

Là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngôn ngữ trong bộ óc con người được hình thành và hoàn thiện dần. Và như vậy, “ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ"[9].

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện trở thành "vỏ vật chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử. Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hoá, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội đã tích luỹ được qua các thế hệ, thời kỳ lịch sử. Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.

Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng không phải cứ có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người.

b. Bản chất của ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ biện chứng. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người.

Về bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người[10].

Như vậy, khi xem xét ý thức về mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó.

Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội. Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám phá không ngừng cả bề rộng và chiều sâu của các đối tượng phản ánh. Bằng những thao tác của tư duy trừu tượng đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra "thiên nhiên thứ hai" in đậm dấu ấn của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người. Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là quá trình mang tính hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình "sáng tạo lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. Ba là, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.

Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.

c. Kết cấu của ý thức

Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.

* Các lớp cấu trúc của ý thức.

 Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...; trong đó tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng nhận thức dưới các loại ngôn ngữ. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như:­ tri thức về tự nhiên, xã hội, con người; và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học v.v..

Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.

Niềm tin là sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn, thôi thúc con người hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.

Ý chí là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế giới.

* Các cấp độ của ý thức.

Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng tự phân biệt, tách mình, đối lập mình với thế giới đó để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ.

Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã biến gần như thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.

Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông qua phản xạ vô điều kiện. Vô thức là những trạng thái tâm lý ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự can thiệp của lý trí. Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ lời, nói nhịu,...  Chức năng chung của các hiện tượng vô thức là giải toả những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần quan trọng trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, dày vò mặc cảm, "libiđô"...

d) Vấn đề "trí tuệ nhân tạo".

Ngày nay, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển mạnh mẽ, sản xuất ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay thế lao động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn máy tính điện tử, "người máy thông minh", "trí tuệ nhân tạo". Song, điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như­ con người. Ý thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người máy thông minh" thực ra chỉ là một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được con người lập trình phỏng theo một số thao tác của tư duy con người. Máy móc chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn con người là một thực thể xã hội năng động được hình thành trong tiến trình lịch sử tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có con người có ý thức mới thực hiện được và qua đó lập trình cho máy móc thực hiện. Sự phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực chỉ có ở ý thức của con người với tính cách là một thực thể xã hội, hoạt động cải tạo thế giới khách quan. Ý thức mang bản chất xã hội. Do vậy, dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được như­ bộ óc con người.

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình

Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Trên thực tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo, chủ nghĩa ngu dân. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với "đường sáng thế". Trong thực tiễn, người duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu hóa vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.

Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ "khách quan chủ nghĩa", thụ động, ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.

* Vật chất quyết định ý thức.

Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.

Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính bộ phận của con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.

Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.

Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.

Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.

Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.

Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.

Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.

* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.

Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực.

Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.

Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.

Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu l­ưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.

Ý nghĩa phương pháp luận

Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.

Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.

Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.

4. Ý nghĩa phương pháp luận trong công tác Công an

Từ quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đòi hỏi trong công tác Công an cần quán triệt quan điểm xuất phát từ thực tế khách quan, cụ thể là:

- Quán triệt trong nghiên cứu các quy luật hoạt động của các loại tội phạm.

- Nhận thức quy luật đấu tranh chống tội phạm, đảm bảo an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội để góp phần xây dựng và phát triển đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Phải tôn trọng thực tế khách quan trong việc tham mưu cho các cấp trogn việc ban hành các chủ trương, chính sách cũng như trong việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đưa ra quyết định tố tụng, thực hiện các phương án, kế hoạch, chiến thuật,...

- Trong bất kỳ hoạt động nào của công tác công an cũng cần phải khai thác, tận dụng triệt để mọi khả năng khách quan, mọi điều kiện vật chất cho phép để hoàn thành nhiệm vụ.

- Mọi quyết sách của lực lượng Công an phải xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Đặc biệt về xây dựng lực lượng, tổ chức cán bộ, thực hiện đối sách với đối tượng, đối tác cụ thể.

- Trong nhận thức và hành động phải lấy nhân tố vật chất làm nền tảng căn bản; Phải xuất phát từ chính sự vật, hiện tượng như nó vốn có để kết luận bản chất sự vật, không được đem ấn tượng vốn có để áp đặt cho sự vật, tránh áp đặt những kết luận chủ quan, dù đó là đối tượng đấu tranh; Chống thái độ chủ quan, duy ý chí, đặc biệt chống chủ nghĩa cá nhân, kinh nghiệm hẹp hòi, coi thường, bất chấp quy luật khách quan, hành động theo cảm tính.

Bên cạnh đó, cũng cần quán triệt sâu sắc quan điểm phát huy tính năng động chủ quan trong công tác Công an, đó là:

- Phải tôn trọng các tri thức khoa học ngành, tránh rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc giáo điều

- Chủ động trong khám phá các quy luật hoạt động của các thế lực thù địch và tội phạm, nghiên cứu nắm vững tình hình thực tế và dự báo đúng tình hình để chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, kỹ lưỡng về trí tuệ, tư tưởng, tâm thế, chủ trương, kế hoạch công tác.

-  Chủ động trong hành động, chuẩn bị tốt các phương tiện, nội dung, chương trình kế hoạch và các điều kiện cần thiết khác để kiểm soát, xử lý công việc, đem lại kết quả như mong muốn, nhanh nhạy, sáng tạo.

- Chủ động xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương tình tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đông đảo quần chúng về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch chống Việt Nam và của các loại tội phạm

- Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tích cực học tập, nghiên cứu tri thức từ kho tàng tri thức của ngành và của xã hội, từng bước nâng cao năng lực nhận thức và hành động trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm An ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

- Khắc phục bệnh giáo điều, máy móc, dễ rơi vào tình trạng lúng túng, bị động, bất ngờ.

II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Biện chứng và phép biện chứng duy vật

a. Biện chứng và các loại hình biện chứng

Biện chứng là quan điểm, phương pháp “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”[11]. Phương pháp tư duy này cho phép không chỉ nhìn thấy mối liện hệ trong từng sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể.

Biện chứng được chia thành biện chứng khách quanbiện chứng chủ quan. Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế giới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Biện chứng chủ quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của sự thống nhất giữa lôgíc (biện chứng), phép biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện chứng và biện chứng của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Bởi vậy, biện chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh những quy luật của tư duy biện chứng.

Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối quan hệ thống nhất với nhau, tạo nên cơ sở phương pháp luận của hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan, tức bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng như thế nào thì tư duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải phản ánh đúng như thế ấy.

Mặc dù biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan nhưng biện chứng chủ quan có tính độc lập tương đối với biện chứng khách quan và được thể hiện trên thực tế: sự vật, hiện tượng được phản ánh và nhận thức của con người về chúng không hoàn toàn trùng khít nhau, bởi quá trình tư duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy luật mang tính mục đích và sáng tạo của con người.

b. Phép biện chứng duy vật và phép biện chứng duy vật

Về định nghĩa phép biện chứng, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không đưa ra một định nghĩa thống nhất nào, mà trong các tác phẩm của các ông có nhiều định nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi bàn về các quy luật, Ph.Ăngghen định nghĩa “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”[12]. Khi chỉ ra nội dung chủ yếu của phép biện chứng, Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” có “Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, - sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ định, - phát triển theo hình xoáy trôn ốc”[13].

Trong khi đó, V.I.Lênin định nghĩa “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”[14]; khi bàn về các yếu tố của phép biện chứng, ông đưa ra định nghĩa, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”[15].

Thông qua việc các ông đưa ra các định nghĩa ta có thể rút ra một số đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật. Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học tự nhiên trước đó.

Phép biện chứng duy vật đã có vai trò quan trọng trong việc kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó mới có thể đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên cứu này sang lĩnh vực khác.

Để trả lời câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển? Phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Qua đó thấy được đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới.

2. Nội dung của phép biện chứng duy vật và sự vận dung trong công tác công an

a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

Nguyên lý là những khởi điểm hay những luận điểm cơ bản nhất có tính chất tổng quát của một học thuyết chi phối sự vận hành của tất cả các đối tượng thuộc lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nó. Theo nghĩa đó, nguyên lý triết học là những luận điểm – định đề khái quát nhất được hình thành nhờ sự quan sát, trải nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; rồi đến lượt mình chúng lại làm cơ sở, tiền đề cho những suy lý tiếp theo rút ra những nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương pháp... phục vụ cho các hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.

* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Trước đây, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ giữa các sự vật ra từ ý thức, tinh thần (Hêghen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các mối liên hệ, còn Béccơly trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng, cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các đối tượng).

Còn quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, được phổ biến rộng rãi trong khoa học tự nhiên rồi lan truyền sang triết học. Ở Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, trình độ của khoa học tự nhiên còn nhiều hạn chế, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc sưu tập tài liệu, nghiên cứu thế giới trong sự tách rời từng bộ phận riêng lẻ. Quan điểm như vậy dẫn thế giới quan triết học đến sai lầm là dựng lên ranh giới giả tạo giữa các sự vật, hiện tượng, đặt đối lập các nghiên cứu khoa học chuyên ngành với nhau. Vì vậy, quan điểm siêu hình không có khả năng phát hiện ra những quy luật, bản chất và tính phổ biến của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Trái lại, quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau, chứ không hề tách biệt nhau. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng:

 “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.

Mọi đối tượng đều trong thế giới đều ở trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ với nhau. Chúng liên hệ với nhau ở một số mặt, thuộc tính, và không liên hệ với nhau ở những mặt, thuộc tính khác, trong chúng tồn tại cả những biến đổi khiến các đối tượng khác thay đổi, lẫn những biến đổi không làm các đối tượng khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập thống nhất với nhau.

Tính chất của mối liên hệ phổ biến. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính trong cùng một sự vật với nhau,…Các mối liên hệ, tác động đó - suy đến cùng, đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có muôn vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng.

Ngoài tính chất khách quan và tính chất phổ biến, các mối liên hệ còn tính đa dạng, phong phú. Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể.

Dựa vào vào tính chất và vai trò của từng mối liên hệ mà phân loại thành các mối liên hệ, có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu... chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Tuy vậy, việc phân loại này cũng chỉ mang tính t­ương đối, bởi vì các mối liên hệ của các đối tượng là rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi tất cả các mối liên hệ khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển cụ thể của chúng.

Trong thế giới, mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong nhiều mối liên hệ phức tạp, tác động qua lại với nhau; do vậy, khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện. Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát thành nguyên tắc toàn diện với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức và thực tiễn như sau:

Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét các sự vật, hiện tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó; cần phải có cái nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ của sự vật đó.

Thứ hai, khi nghiên cứu về sự vật, hiện tượng phải nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại và rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.

Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.

Thứ tư, trong quá trình xem xét, đánh giá cần tránh chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác, tránh quan điểm phiến diện, một chiều; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).

* Nguyên lý về sự phát triển

Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ vận động theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thóat ly chúng thì không thể có phát triển.

Cần phân biệt hai khái niệm gắn với khái niệm phát triển là tiến hóatiến bộ. Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ, và thường là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Trong khi đó, khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu.

Khi nghiên cứu về sự phát triển các nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển coi sự phát triển ở đây chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm ngoài chúng, và tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng.

Quan điểm biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình về sự phát triển ở chỗ, nó coi sự phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế; nó chỉ ra nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa không ngừng. Cơ sở của sự vận động đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng.

Vì thế, V.I.Lênin cho rằng, học thuyết về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”. Do vậy, quan điểm này được xây dựng thành khoa học nhằm phát hiện ra các quy luật, bản chất và tính phổ biến của vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Đặc điểm chung của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy ốc, có kế thừa, có sự d­ường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa có những bước nhảy vọt... làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên.

Về tính chất, phát triển có tính khách quan thể hiện ở chỗ, nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người. Phát triển có tính phổ biến: sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Phát triển có tính kế thừa, sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô, vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục phát triển.

Ngoài tính khách quan, tính phổ biến, tính kế thừa, phát triển còn có tính đa dạng, phong phú; tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó...

Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển chúng ta thấy được rằng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải quán triệt nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu:

Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.

Thứ hai, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.

Thứ ba, sớm phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, cái hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.

Thứ tư, trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.

Sự vận dụng nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển vào hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tuân theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể xuất phát đồng thời từ chúng. Nguyên tắc này đòi hỏi phải quán triệt những nội dung sau:

Thứ nhất, cần xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng vừa trong điều kiện, môi trường, hoàn cảnh vừa trong quá trình lịch sử, vừa ở từng giai đoạn cụ thể của quá trình đó thì mới nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng.

Thứ hai, nguyên tắc lịch sử không chỉ dừng lại ở chỗ liệt kê những giai đoạn phát triển lịch sử mà khách thể nhận thức đã trải qua, mà còn đòi hỏi chủ thể nhận thức phải vạch ra được tính tất yếu và các quy luật chi phối sự thay thế lẫn nhau của các khách thể nhận thức (do khách thể nhận thức chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác), đặc biệt là phải tách ra được “cái cơ bản nhất trong chiều hướng phát triển, hay trong cái dây xích phát triển” của khách thể nhận thức. V.I.Lênin viết “trong mỗi thời kỳ đặc biệt, cần phải tìm cho ra cái mắt xích đặc biệt mà người ta phải đem toàn lực ra nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái xích và chuẩn bị để chuyển vững chắc sang mắt xích kề bên; hơn nữa, trình tự nối tiếp, hình thức, mối liên hệ của (chúng) và những đặc điểm khác nhau của (chúng) trong ... những biến cố lịch sử đều không đơn giản...”[16]. Qua đoạn trích này, V.I.Lênin nhắc nhở rằng, nhận thức về một khách thể nào đó, nhất là trong lĩnh vực xã hội, dù cho nhận thức đó đã là chân lý, cũng không phải là một cái gì cứng nhắc, luôn luôn đúng trong mọi biến cố của lịch sử.

b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Trong quá trình nhận thức con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung cùng có ở tất cả chúng. Đó là vận động, không gian, thời gian, nhân quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn… Chúng là những đặc trưng của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng, là những phạm trù triết học.

Như vậy, phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những mô hình tư tưởng phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện thực. Chúng giúp con người suy ngẫm những chất liệu cụ thể đã thu nhận được trong quá trình nhận thức và cải biến hiện thực, chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của khách thể.

Phép biện chứng duy vật đã khái quát các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng thành các phạm trù cơ bản: cặp cái riêng, cái chung; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; cặp nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực; cặp nội dung và hình thức.

* Cái riêng và cái chung

Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa.

Trước đây, khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng có hai xu hướng đối lập nhau của phái duy thực và phái duy danh. Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan. Chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại trong tư duy con người. Cái chung chỉ là tên gọi, danh xưng của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những hạn chế của cả hai xu hướng đó và phát triển lên một tầm cao mới trong việc lý giải mối quan hệ cái chung - cái riêng. Cả cái chung lẫn cái đơn nhất đều không tồn tại độc lập, tự thân, chúng là thuộc tính nên phải gắn với đối tượng xác định. Chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện tượng riêng) mới tồn tại độc lập. Cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt của cái riêng.

Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cái riêng và liên hệ không tách rời với cái đơn nhất, hệt như cái đơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung. “Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung…”[17]. Cái riêng không vĩnh cửu, nó xuất hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến thành cái riêng khác, rồi lại thành cái riêng khác nữa… cứ thế mãi vô cùng. V.I. Lênin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình). Nó “chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”[18] và có khả năng chuyển hóa ở những điều kiện phù hợp thành cái riêng bất kỳ khác.

Mọi cái riêng đều là sự thống nhất các mặt đối lập cái đơn nhất và cái chung. Thông qua những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại của mình, nó thể hiện là cái đơn nhất; nhưng thông qua những thuộc tính lặp lại ở các đối tượng khác – nó lại thể hiện là cái chung. Trong khi là những mặt của cái riêng, cái đơn nhất và cái chung không đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau và trong những điều kiện xác định có thể chuyển hóa vào nhau.

Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sự vật, hiện tượng khác.

Mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng biểu hiện là mối liên hệ lẫn nhau giữa các thuộc tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đó được xét như cái toàn bộ.

Như vậy, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ phận bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ đối tượng (cái riêng) nào cũng còn có cái đơn nhất, tức là bên cạnh những mặt được lặp lại còn có những mặt không lặp lại, những mặt cá biệt; vì vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào cũng là sự thống nhất giữa các mặt đối lập đó. Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa là cái chung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt không lặp lại của mình, sự vật, hiện tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thông qua các mặt lặp lại trong các sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.

Ý nghĩa phương pháp luận

Thứ nhất, trong thực tiễn không thể vận dụng một quy luật nào đó như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thân cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.

Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn nhất, thì không nên sử dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định, những mặt chung đối với trường hợp đó khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác.

Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.

* Nguyên nhân và kết quả

Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.

Phép biện chứng duy vật cho rằng, một nguyên nhân nhất định trong hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một kết quả nhất định; bởi vậy, nếu các nguyên nhân càng ít khác nhau bao nhiêu, thì các kết quả do chúng gây ra cũng ít khác nhau bấy nhiêu.

Trong quá trình vận động, phát triển, nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa cho nhau. Cái mà ở thời điểm hoặc trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì ở thời điểm, trong mối quan hệ khác lại là kết quả[19]. Nhưng nếu bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó thì cũng không có nghĩa là mỗi sự vật, hiện tượng chỉ do một nguyên nhân sinh ra.

Trên thực tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, do vậy sự phân loại nguyên nhân thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài... đối với một kết quả vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Ý nghĩa phương pháp luận.

 Thứ nhất, trong thực tiễn, để nhận thức được sự vật, hiện tượng nhất thiết phải tìm ra nguyên nhân xuất hiện của nó còn muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó không cần thiết, thì phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó.

Thứ hai, để xác định phương hướng đúng cho hoạt động thực tiễn, cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó trong mối quan hệ mà nó giữ vai trò là kết quả, cũng như trong mối quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân, sản sinh ra những kết quả nhất định; khi tìm nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng cần tìm ở các sự vật, sự kiện, mối liên hệ đã xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng xuất hiện.

Thứ ba, không nóng vội khi kết luận về nguyên nhân nào đã sinh ra nó; khi muốn gây ra một sự vật, hiện tượng có ích trong thực tiễn cần phải lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể chứ không nên rập khuôn theo phương pháp cũ.

* Tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật, hiện tượng quy định và trong điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ không bản chất, do nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định nên có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác.

Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan trong sự thống nhất hữu cơ. Bên cạnh đó, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò nhất định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng; nhưng tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra nhanh hay chậm.

Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, có khả năng hoán đổi vị trí cho nhau trong những hoàn cảnh nhất định, thông qua mối liên hệ này thì đó là ngẫu nhiên, còn thông qua những mối liên hệ khác thì đó là tất nhiên. Ph.Ăngghen viết, “Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần tuý cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”[20], do vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối, từ đó cần tránh quan niệm cứng nhắc về tất nhiên, ngẫu nhiên khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng.

Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên vì tất nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế và nhiệm vụ của khoa học là tìm cho được mối liên hệ tất nhiên của hiện thực khách quan.

Thứ hai, tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý nên trong hoạt động nhận thức chỉ có thể chỉ ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải đi qua.

Thứ ba, không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà phải có những phương án dự phòng trường hợp các sự cố ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ vì ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển, thậm chí còn có thể làm cho tiến trình phát triển của sự vật, hiện tượng đột ngột biến đổi.

Thứ tư, ranh giới giữa tất nhiên với ngẫu nhiên chỉ là tương đối nên sau khi nhận thức được các điều kiện có thể tạo ra sự chuyển hóa trên, có thể tạo ra điều kiện thuận lợi để “biến” ngẫu nhiên phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên và tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên.

* Nội dung và hình thức

Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.

  Nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, nhưng nội dung giữ vai trò quyết định. Hình thức xuất hiện trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại tương đối độc lập và có ảnh hưởng tới nội dung, gây ra các hệ quả nhất định. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển đó của nội dung.

Trong quá trình phát triển, cùng một nội dung có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu hiện cho một số nội dung khác nhau. Sự vật, hiện tượng phát triển thông qua sự đổi mới không ngừng của nội dung và sự thay đổi theo chu kỳ của hình thức. Lúc đầu, sự biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hình thức, nhưng khi sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra tới giới hạn nhất định, nội dung mới xuất hiện thì hình thức ban đầu trở nên chật hẹp, kìm hãm sự phát triển của nội dung. Nội dung mới phá bỏ hình thức cũ và trong vỏ bao bọc của hình thức mới đó, thì nội dung mới sẽ tiếp tục phát triển.

Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, muốn biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung của nó. Bởi vì, hình thức của sự vật, hiện tượng do nội dung của nó quyết định, là kết quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng những thay đổi đó, thì sự thay đổi hình thức phải dựa vào những thay đổi thích hợp của nội dung quyết định nó.

Thứ hai, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển nhanh, cần chú ý theo dõi mối quan hệ giữa nội dung đang phát triển với hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì, trong những điều kiện nhất định, phải can thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại sự thay đổi cần thiết về hình thức để nó trở nên phù hợp với nội dung đã phát triển và bảo đảm cho nội dung phát triển hơn nữa, không bị hình thức cũ kìm hãm.

Thứ ba, sử dụng mọi hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến các hình thức vốn có, lấy hình thức này bổ sung, thay thế cho hình thức cũ để làm cho bất kỳ hình thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới.

* Bản chất và hiện tượng

Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.

Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng.

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái này không thể tồn tại thiếu cái kia. Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng phù hợp với nhau, bởi mỗi đối tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng và sự thống nhất đó được thể hiện ở chỗ, bản chất tồn tại thông qua hiện tượng còn hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất. Tuy vậy, “nếu hình thái biểu hiện và bản chất sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”[21]; trong những điều kiện nhất định, bản chất thể hiện dưới hình thức đã bị cải biến, xuyên tạc những yếu tố thực sự của bản chất bằng cách bổ sung vào hay bớt đi từ bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể và các mối liên hệ ngẫu nhiên quy định, làm hiện tượng phong phú hay nghèo nàn hơn bản chất. Nhưng bản chất luôn là cái tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi. V.I.Lênin viết, “không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế”[22]. Bản chất gắn bó chặt chẽ với cái phổ biến, phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, cái đơn nhất. Bản chất cũng là tính quy luật, bởi nói đến bản chất là nói đến tổng số các quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà cần đi sâu vào bên trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thường giấu mình sau hiện tượng; dựa vào các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Thứ hai, bản chất là sự thống nhất giữa các mặt, các mối liên hệ tất nhiên vốn có của sự vật, hiện tượng, bản chất là địa bàn thống lĩnh của các mâu thuẫn biện chứng và chúng được giải quyết trong quá trình phát triển dẫn đến sự biến đổi của bản chất, tạo ra sự chuyển hóa của đối tượng từ dạng này sang dạng khác nên các phương pháp đã được áp dụng vào hoạt động cũ trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương pháp khác, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng.

* Khả năng và hiện thực

Khả năng là phạm trù phản ánh tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái có thể có, nhưng ngay lúc này chưa có; hiện thực là phạm trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và là cơ sở để định hình những khả năng mới.

Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực là những mặt vừa đối lập vừa thống nhất biện chứng với nhau: chúng loại trừ nhau theo những dấu hiệu căn bản nhất, nhưng không cô lập hoàn toàn với nhau. Sinh ra từ trong lòng hiện thực và đại diện cho tương lai ở thời hiện tại, khả năng làm bộc lộ hết tính tương đối của hiện thực. Thông qua tính tương đối đó mà hiện thực hóa sự liên tục của các quá trình biến đổi. Mọi đối tượng đều bắt đầu phát triển từ sự chín muồi các tiền đề sinh thành của nó. Hiện thực bao chứa trong mình số lớn các khả năng, nhưng không phải tất cả đều được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa từng khả năng đòi hỏi các điều kiện tương ứng, nhưng rất có thể thiếu điều kiện như thế.

Các dạng khả năng. Hiện thực thường có nhiều mặt, nhiều xu hướng vận động, nhiều khả năng biến đổi. Chúng giữ vai trò không ngang nhau trong sự vận hành và phát triển hiện thực. Có nhiều cơ sở phân loại khả năng. Có thể chia các khả năng thành hai nhóm phụ thuộc vào việc cái gì quy định chúng: các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên hay ngẫu nhiên. Những khả năng bị quy định bởi những thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên của đối tượng được gọi là khả năng thực; còn những khả năng bị quy định bởi các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiên, - là khả năng hình thức. Khả năng thực trong những điều kiện thích hợp tất yếu được thực hiện, còn khả năng hình thức - có thể được thực hiện cũng có thể không. Phụ thuộc vào mối liên hệ với những điều kiện này như thế nào, khả năng được chia ra thành khả năng cụ thể và khả năng trừu tượng. Loại thứ nhất là những khả năng mà để thực hiện chúng hiện đã có đủ điều kiện, loại thứ hai là những khả năng mà ở thời hiện tại còn chưa có những điều kiện thực hiện chúng, nhưng điều kiện có thể xuất hiện khi đối tượng đạt tới một trình độ phát triển nhất định.

Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng do hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới sự chuyển hóa thành hiện thực. Tuy nhiên, vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai nên khi đề ra kế hoạch, phải tính đến mọi khả năng để kế hoạch đó sát với thực tiễn. Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức là phải xác định được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng và tìm ra khả năng ấy trong chính bản thân nó, bởi khả năng nảy sinh vừa do sự tác động qua lại giữa các mặt bên trong, vừa do sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng với hoàn cảnh bên ngoài.

Thứ hai, phát triển là quá trình mà trong đó khả năng chuyển hóa thành hiện thực, còn hiện thực này trong quá trình phát triển của mình lại sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong điều kiện thích hợp lại chuyển hóa thành hiện thực, tạo thành quá trình vô tận; do vậy, sau khi đã xác định được các khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng, thì mới nên tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng.

Thứ ba, cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp có thể xảy ra do trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa nhiều khả năng khác nhau.

Thứ tư, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải lựa chọn khả năng trong số hiện có, trước hết là chú ý đến khả năng gần, khả năng tất nhiên vì chúng dễ chuyển hóa thành hiện thực hơn.

Thứ năm, cần tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.

c. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện phù hợp. “Quy luật khách quan” vốn thuộc biện chứng của sự tồn tại khách quan khác với “quy luật khoa học” vốn là sự khái quát những liên hệ và quy luật khách quan rồi được trình bày trong các lý thuyết khoa học bằng những phán đoán phổ biến. Do đó, về nguyên tắc, các quy luật khoa học chỉ gần đúng với các quy luật khách quan. Sự thừa nhận tính khách quan của các quy luật tự nhiên và xã hội là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đối với sự phát triển tri thức khoa học.

* Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên các phương diện khác nhau,... Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.

Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.

Đặc điểm cơ bản của chất: thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng; nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.

Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật.

Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác.

Sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.

Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt...

Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; cái là lượng trong mối quan hệ này, lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.

Sự phân biệt giữa lượng và chất có tính chất tương đối. Trong mối quan hệ này một tính quy định là lượng, nhưng trong mối quan hệ khác tính quy định đó lại đóng vai trò là chất.

Các khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy, xuất hiện trong quá trình tác động lẫn nhau giữa chất và lượng. Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mớiđiểm nút mới. Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện tượng.

Sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện; trong sự vật, hiện tượng mới đó lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên một đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật lượng đổi - chất đổi còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đã khẳng định mình, nó tạo ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng. Bản thân chất mới được tạo thành cũng thúc đẩy sự thay đổi tương ứng của lượng để cho lượng này trở nên phù hợp hơn với chất mới đó.

Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tùy vào sự vật, hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.

  Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố... của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng. Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.

  Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.

Ý nghĩa phương pháp luận

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích luỹ về lượng.

Thứ hai, cần tránh tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; cũng cần tránh tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng.

Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.

Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.

* Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập

Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển. Theo V.I.Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,...”[23].

Nội dung của quy luật này cũng được vạch mở thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù liên quan.

Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.???

 Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện ở, thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia; thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất này mà trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động ở điều kiện phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa vào nhau. Đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó, vừa là sự vật, hiện tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, đối lập.

Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng; còn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng. Về vấn đề này C.Mác viết: "Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”[24]. Còn V.I.Lênin, chú ý nhiều hơn đến tính tuyệt đối của "đấu tranh” đã viết: "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh” giữa các mặt đối lập”[25].

Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng đa dạng. Sự đa dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập, vào điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai, vào trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn cơ bảnmâu thuẫn không cơ bản; căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếumâu thuẫn thứ yếu; căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có mâu thuẫn bên trongmâu thuẫn bên ngoài; căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối khángmâu thuẫn không đối kháng.

Nói về vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển, Ph.Ăngghen nhấn mạnh, nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là sự tác động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động dẫn đến vận động là tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng (bên ngoài) và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng (bên trong); nhưng chỉ có sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.

Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là tự thân.

Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.

Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.

* Quy luật phủ định của phủ định

Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ "phủ định của phủ định".

Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; từ đó dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.

Phủ định biện chứng có tính khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong nó gây ra), tính kế thừa (loại bỏ các yếu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện tượng mới). Phủ định biện chứng còn có tính phổ biến (diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy); tính đa dạng, phong phú của phủ định biện chứng thể hiện ở nội dung, hình thức của nó.

Đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng là sau một số (ít nhất là hai) lần phủ định, sự vật, hiện tượng phát triển có tính chu kỳ theo đường xoáy ốc mà thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, trong đó giai đoạn sau vẫn bảo tồn những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. Với đặc điểm này, phủ định biện chứng không chỉ khắc phục hạn chế của sự vật, hiện tượng cũ; mà còn gắn chúng với sự vật, hiện tượng mới; gắn sự vật, hiện tượng được khẳng định với sự vật, hiện tượng bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.

Kế thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ việc sự vật, hiện tượng mới ra đời vẫn giữ lại có chọn lọc và cải tạo yếu tố còn thích hợp để chuyển sang chúng; loại bỏ các yếu tố không còn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới.

Đặc điểm của kế thừa biện chứng là duy trì các yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng vượt bỏ, các yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải tạo, biến đổi để phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự quy định bởi vai trò của yếu tố phù hợp được kế thừa; do vậy, việc giữ lại yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định làm cho sự vật, hiện tượng mới có chất giàu có hơn, phát triển cao hơn, tiến bộ hơn.

Kế thừa biện chứng đối lập với kế thừa siêu hình - là việc đối tượng giữ lại nguyên si những gì bản thân nó đã có ở giai đoạn phát triển trước, không tự mình rũ bỏ những yếu tố đã tỏ ra lạc hậu hết thời, không còn phù hợp, thậm chí còn ngáng đường, ngăn cản sự phát triển tiếp theo của chính nó, của đối tượng mới.

Kế thừa biện chứng đảm bảo "sợi dây" liên hệ thông suốt bền chặt giữa đối tượng mới với đối tượng cũ, giữa nó với quá khứ của chính nó. Trong trường hợp này những yếu tố còn tỏ ra phù hợp với đối tượng mới từ đối tượng cũ nhưng vẫn cần phải chịu sự cải tạo mạnh mẽ cho phù hợp với bản chất mà đối tượng mới đang tạo lập và những yếu tố mới hẳn mà đối tượng mới đang ra sức xây dựng, bổ sung, của bước chuyển, của sự quá độ từ cũ sang mới. Trong quá trình đó chứa đựng cả những yếu tố cũ, lỗi thời đang dần mất đi, và những yếu tố mới đang xuất hiện, đang trưởng thành và sẽ dần được khẳng định.

Do vậy, đường xoáy ốc là khái niệm dùng để chỉ sự vận động của những nội dung mang tính kế thừa có trong sự vật, hiện tượng mới nên không thể đi theo đường thẳng, mà diễn ra theo đường tròn không nằm trên một mặt phẳng tựa như đường xoáy trôn ốc. Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng ở tính kế thừa qua khâu trung gian, tính lặp lại, nhưng không quay lại và tính tiến lên của sự phát triển. V.I.Lênin lưu ý chúng ta: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”[26]. Như vậy, sự phát triển dường như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện trình độ phát triển cao hơn và sự nối tiếp nhau các vòng của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.

Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do mâu thuẫn bên trong của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa giữa những mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng.

Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó, phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ, nhưng cũng đã mang không ít nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào), nhưng về nội dung, không phải trở lại chúng giống y như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn. Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển vì chỉ thông qua phủ định của phủ định mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy, phủ định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển, đồng thời lại tạo ra điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo. Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển có thể nhiều hơn hai, tuỳ theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải qua hai lần mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, hoàn thành được một chu kỳ phát triển.

Mỗi lần phủ định biện chứng thực hiện xong sẽ mang thêm những yếu tố tích cực mới; do vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển không ngừng của sự vật, hiện tượng. Do có sự kế thừa nên phủ định biện chứng không phải là phủ định sạch trơn, không loại bỏ tất cả các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và gìn giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn lọc, cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ đạo tiến lên như đường xoáy ốc.

Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển.

Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi.

Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát; nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới đó gắn với việc nhận thức và hành động có ý thức của con người.

Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.

d. Vận dụng trong công tác công an

Trong các hoạt động của công tác công an cần vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của Ngành, trước hết là quán triệt tốt quan điểm toàn diện:

Mọi cán bộ chiến sĩ công an cần phải nhận thức được công tác công an là công tác liên quan tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội, nhiều thành phần trong xã hội; liên quan đến việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Khi triển khai các hoạt động của công tác công an cần phải huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các Bộ, Ban, Ngành và chú ý tới việc huy động sức mạnh của nhân dân,cũng như phối hợp sử dụng nhiều phương tiện, biện pháp nghiệp vụ khác nhau và kết hợp nhiều lực lượng tham gia để xây dựng thế trận an ninh nhân dân kết hợp với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, hiệu quả.

Trong việc nhìn nhận, đánh giá tình hình, vụ việc, đối tượng cụ thể,...cần đặt vấn đề, đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu trong mối liên hệ giữa các yếu tố, mối quan hệ bên trong với các yếu tố, mối liên hệ bên ngoài để thấy được bản chất toàn diện của đối tượng nghiên cứu.

Đối với các đối tượng, cơ quan công an cần loại bỏ cách nhìn phiến diện một chiều, áp đặt để có kết luận đúng người, đúng bản chất, tránh kết luận nóng vội dẫn tới việc oan sai, hoặc gây ra những hậu quả đáng tiếc.

Mỗi cán bộ công an cần phải thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chính trị, pháp luật, nghiệp vụ để có cách nhìn bao quát sự vật, thấy rõ bản chất, quy luật vận động của các loại tội phạm, thấy rõ sự thay đổi âm mưu, phương thức, thủ đoạn phạm tội trên cơ sở đó có những quyết định, hành động phù hợp.

Chống tác phong qua loa, đại khái, cục bộ cá nhân chủ nghĩa trong việc đánh giá, nhận xét về con người cũng như trong hoạch định các phương án, kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm.

Bên cạnh việc tôn trọng quan điểm toàn diện cũng cần quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể:

Khi xem xét, đánh giá các vụ việc, con người, đối tượng, phải đặt trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể cả về mặt khách quan lẫn chủ quan trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.

Xây dựng và triển khai các phương án, kế hoạch nghiệp vụ hoặc đối sách với đối tượng phải dựa trên những căn cứ khoa học, chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa bàn, từng hệ đối tượng và từng đối tượng cụ thể; đặc biệt, phải căn cứ vào những yêu cầu chính trị, nghiệp vụ và pháp luật của Đảng, Nhà nước và của Ngành trong từng giai đoạn, từng thời điểm lịch sử cụ thể.

Không ngừng đổi mới, bổ sung hoàn thiện hệ thống lý luận của ngành và bổ sung các thao tác nghiệp vụ cần thiết khi tình hình thay đổi.

Vận dụng nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi các mặt công tác của lực lượng Công an cần phải biết vận dụng quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu:

Phản ánh đúng đắn tình hình an ninh trật tự trong trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng là luôn vận động, phát triển, tìm ra đúng bản chất và quy luật

Trong xây dựng, hoàn thiện và phát triển lý luận cũng như trong phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh với tội  phạm phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, coi sự vật hiện tượng "nằm im, không vận động".

Khi xem xét sự vật, hiện tượng liên quan tới an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội cần đặt nó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng vận động tiến lên để có cách đánh giá đúng đắn, khoa học, tránh chủ quan, áp đặt.

Quan điểm phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải sớm tìm tòi, phát hiện những nhân tố mới, những phương tiện biện pháp mới, những chiến thuật mới để nhanh chóng ứng dụng trong bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Tích cực nghiên cứu những vấn đề, những xu hướng mới về tình hình, khả năng phát sinh, trát triển của tội phạm cùng âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của chúng, đưa ra các dự báo, cảnh báo và có những phương án, kế hoạch phòng chống phù hợp.

III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC

1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng

Thứ nhất, khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức của con người. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng thế giới vật chất tồn tại độc lập, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù con người có thể chưa biết đến sự tồn tại của chúng.

Thứ hai, thừa nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, toàn bộ cảm giác của chúng ta đều là sự phản ánh, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nhưng đó tuyệt đối không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách thụ động, cứng nhắc.

Thứ ba, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng, sai của những hình ảnh được phản ánh trong cảm giác, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Từ đó, Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”[27].

2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và đó chính là đối tượng của nhận thức. Thế giới hiện thực khách quan chính là nguồn gốc của nhận thức chứ không phải ý thức của con người đã sinh ra thế giới. Trên cơ sở đó, Triết học Mác – Lênin cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới.

Nhận thức là một quá trình phản ánh sống động hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người; là quá trình bộ óc con người kiến tạo nên tri thức về thế giới khách quan được phản ánh: Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh của các sự vật đó”[28]; Điều này một mặt đã chống lại quan điểm duy tâm về nhận thức, mặt khác khẳng định lập trường duy vật về quá trình nhận thức. Khẳng định nhận thức là một quá trình quanh co, vừa nảy sinh và đồng thời giải quyết các mâu thuẫn chứ không chỉ là sự sao chụp đơn giản, máy móc khô cứng.

Nhận thức là một quá trình vận động liên tục và mang tính biện chứng, đó là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết một cách mơ hồ đến sự thấu hiểu tường tận. Quá trình đó diễn ra nhiều lần, có sự khắc phục, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.

Quá trình nhận thức của con người sẽ thường xuyên nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức kinh nghiệm hình thành từ các quan sát trực tiếp thế giới khách quan hoặc các thực nghiệm khoa học. Từ đó sẽ sinh ra tri thức kinh nghiệm thông thường hoặc các tri thức kinh nghiệm khoa học. Mặc dù còn có nhiều hạn chế nhất định như đó mới chỉ là nhận thức bề ngoài, chưa đầy đủ về sự vật hiện tượng, nhưng tri thức kinh nghiệm phần nào đó có vai trò quan trọng đối với đời sống của con người. Nhận thức lý luận, là quá trình nhận thức một cách gián tiếp thông qua các hình thức tư duy trừu tượng để khái quát nên các quy luật, bản chất, tính tất yếu của sự vật hiện tượng. Nhận thức thông thường, được hình thành một cách trực tiếp, tự phát thông qua đời sống sinh hoạt thường nhật của con người. Nhận thức khoa học, trái lại được hình thành thông qua quá trình hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo và tự giác của chủ thể để phản ánh những vấn đề mang tính quy luật, tồn tại trong mối liên hệ của đối tượng nghiên cứu.

Nhận thức là quá trình từ hoạt động thực tiễn của con người mà nảy sinh mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể của nhận thức. Con người chính là chủ thể của quá trình nhận thức, con người ở đây không chỉ là những cá nhân người mà còn là những tập đoàn người cụ thể, tuy nhiên chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử, có tính chất lịch sử - xã hội nhất định. Khách thể nhận thức không phải là toàn bộ đời sống hiện thực khách quan, mà chỉ là một bộ phận, một lĩnh vực của hiện thực khách quan. Khách thể nhận thức không chỉ là thế giới vật chất mà thậm chí còn là tư duy, tâm lý, tư tưởng, tinh thần, tình cảm của con người. Khách thể nhận thức rộng hơn so với đối tượng nhận thức, đồng thời cũng chịu tác động của điều kiện lịch sử - xã hội.

Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Từ đó, có thể nói, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể.

3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

a. Phạm trù thực tiễn

Theo tiếng Hy Lạp thực tiễn là “practica”, dịch nghĩa là hoạt động tích cực. Triết học duy tâm cho rằng thực tiễn là: hoạt động của nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói chung. Triết học tôn giáo thì cho rằng thực tiễn là: hoạt động kiến tạo ra vũ trụ của đấng siêu nhiên. Các nhà triết học duy vật trước Mác đã đưa ra nhiều quan điểm có ý nghĩa về về nhận thức, nhưng vẫn chưa có ai nhận thức đúng được bản chất và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Trên cơ sở khắc phục hạn chế của các quan điểm trước đó, triết học Mác – Lênin cho rằng, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.

Từ nội dung quan niệm về thực tiễn, ta thấy thực tiễn có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, thực tiễn là những hoạt động vật chất – cảm tính, chứ không phải toàn bộ hoạt động nói chung của con người. Thực tiễn chính là những hoạt động vật chất mà con người có thể cảm giác được. Từ đó, chỉ con người mới có thể cải tạo được thể giới khách quan để phục vụ cho nhu cầu sinh tồn của mình.

Thứ hai, thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người. Do đó, hoạt động thực tiễn luôn bị chi phối, tác động bởi những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể.

Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội để phục vụ cho đời sống của con ng­ười. Như vậy, thực tiễn là hoạt động mang tính người rõ rệt, khác biệt hoàn toàn với hoạt động đơn thuần mang tính bản năng của động vật trong quá trình sinh sống của nó.

Thực tiễn tồn tại ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

Sản xuất vật chất là hoạt động thực tiễn xuất hiện đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất. Bởi từ thủa sơ khai, con người đã buộc phải tiến hành hoạt động sản xuất vật chất cơ bản để duy trì sự sống. Sản xuất vật chất là phương thức tồn tại cơ bản, đầu tiên của con người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thông qua hoạt động này, con người tách ra khỏi con thú và phát triển thành loài người văn minh ngày nay. Hoạt động sản xuất vật chất là tiền đề, cơ sở cho các hình thức thực tiễn khác và toàn bộ hoạt động sống của con người.

Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội, để cải tạo xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.

Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do chính con người tạo ra. Từ đó vận dụng các thành quả của quá trình nghiên cứu nhằm cải tạo đời sống xã hội để phục vụ cho đời sống của con người. Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất thì hoạt động thực nghiệm khoa học càng thể hiện được vai trò của mình.

Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, sản xuất vật chất có vai trò quan trọng và có khả năng quyết định tới hai hình thức thực tiễn còn lại. Đồng thời hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học có sự tác động trở lại đối với hoạt động sản xuất vật chất.

Như vậy, thực tiễn một mặt là cầu nối giữa con người với tự nhiên, xã hội, mặt khác thực tiễn cũng tách con người ra khỏi thế giới tự nhiên, thông qua hoạt động thực tiễn con người từ cải tạo tiến tới làm chủ thế giới tự nhiên.

b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức

Con người sử dụng hoạt động thực tiễn để tác động vào thế giới khách quan, buộc chúng bộc lộ các thuộc tính, quy luật cơ bản nhất để con người nhận thức. Thực tiễn cung cấp toàn bộ tư liệu, vật liệu cho nhân thức của con người, các ngành khoa học, lý luận, tri thức của con người cũng được sinh ra từ đó.

Thông qua các nhu cầu được đặt ra từ hoạt động thực tiễn, các khí quan vật chất nhằm hỗ trợ cho con người trong quá trình nhận thức được chế tác, giúp cho quá trình nhận thức của con người ngày càng hoàn thiện hơn. Có thể khẳng định, thực tiễn không chỉ là là nền tảng, cơ sở để nhận thức của con người nảy sinh, tồn tại, phát triển, mà còn là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức

Ngay từ thủa sơ khai, nhận thức của con người đã bị quy định bởi những nhu cầu của đặt ra thực tiễn. Bởi lẽ thực tiễn gắn liền với tất cả hoạt động cơ bản, đầu tiên đảm bảo sinh tồn của con người. Điều đó buộc con người phải nhận thức được thế giới xung quanh, sau đó quay trở lại dùng chính nhận thức đó để cải tạo thế giới, phục vụ cho chính nhu cầu của mình.

Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý

Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan. Không thể lấy sự tán thành, tín nhiệm của số đông để kiểm tra tri thức, càng không thể lấy tri thức để xác thực tính đúng sai của chính nó. Mà phải thông qua thực tiễn để chứng minh và kiểm nghiệm chân lý. Bởi chỉ thông qua thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, mô hình hóa được các giả thuyết, luận điểm qua đó mới có thể nhìn thấy được tính đúng sai của chân lý.

Có nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, theo đó cũng tồn tại nhiều hình thức kiểm tra chân lý. Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn trong kiểm tra chân lý ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Tính tương đối của thực tiễn trong kiểm tra chân lý ở chỗ, thực tiễn có một quá trình vận động phát triển lâu dài và liên tục. Vì thế “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”[29]. Do đó, muốn kiểm nghiệm chân lý phải đặt trong một thực tiễn trong không gian rộng lớn, thời gian lâu dài thì mới có thể nhìn rõ được tính đúng sai của tri thức.

Từ việc nhìn nhận vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, ta thấy trong đời sống khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng cần phải gắn liền với nhu cầu của thực tiễn, phải tôn trọng thực tiễn, nhằm tránh bệnh giáo điều, kinh viện trong quá trình nhận thức.

4. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức chân lý

Các triết gia từ trước đến nay đều khẳng định quá trình nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy nhiên, khi xác định vị trí, vai trò, sự tác động lẫn nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính lại có sự khác nhau nhất định. Theo V.I.Lênin con đường biện chứng của quá trình nhận thức được thể hiện như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”[30].

Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của quá trình nhận thức có những thuộc tính khác nhau, kế tiếp nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức thống nhất của con người về thế giới. Thực tiễn vừa là cơ sở, động lực, mục đích của quá trình nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng sai chân lý. Thực tiễn vừa là điểm kết thúc lại cũng là điểm bắt đầu của quá trình nhận thức, theo đó sự nhận thức của con người là một quá trình không có hồi kết.

a. Nhận thức cảm tính (Trực quan sinh động)

Đây là giai đoạn bắt đầu của quá trình nhận thức, xuất phát từ thực tiễn. Giai đoạn này, nhận thức của con người phản ánh trực tiếp khách thể bằng trực quan, diễn ra dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là hình thức giản đơn nhất của quá trình nhận thức.

Tri giác là một hình thức nhận thức của giai đoạn trực quan sinh động. Tri giác là sự tổng hợp của nhiều cảm giác trong quá trình phản ánh sự vật hiện tượng. Do đó, tri giác mang lại hình ảnh về sự vật hiện tượng đầy đủ hơn so với cảm giác.

Biểu tượng là hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính. Nếu như cảm giác và tri giác chỉ dừng lại ở sự phản ánh trực quan thì biểu tượng là khi hình ảnh của sự vật hiện tượng được tái hiện trong óc người nhờ trí nhớ, khi sự vật hiện tượng không hề tác động trực tiếp vào giác quan của con người. Tuy nhiên, biểu tượng dù đã hoàn chỉnh hơn nhưng vẫn là hình ảnh cảm tính về sự vật, do đó chưa phải là hình thức của nhận thức lý tính. Nó được xem là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.

           Ở giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức vẫn chưa đem lại những hiểu biết sâu sắc, khái quát trong tính chỉnh thể của sự vật hiện tượng.

           b.  Nhận thức lý tính (Tư duy trừu tượng)

           Bắt đầu từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, con người phản ánh sự vật một cách gián tiếp, đầy đủ hơn, khái quát hơn dưới các hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý.

           Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát, gián tiếp một hoặc một số thuộc tính mang tính bản chất của một nhóm sự vật, hiện tượng được thể hiện bằng một từ hay một cụm từ. Thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Là kết quả của quá trình tổng hợp, khái quát biện chứng những liệu thu thập được được trong hoạt động thực tiễn. Cùng với sự năng động, biến đổi thường xuyên của hoạt động thực tiễn nên các khái niệm để phản ánh đúng thực tiễn cũng phải luôn vận động, biến đổi, phát triển cho phù hợp.

  Phán đoán là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng của thế giới trong ý thức con người. Phản ánh là một hình thức của tư duy trừu tượng, thông qua việc liên kết các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính hay một mối liên hệ nào đó của sự vật. Phán đoán được biểu hiện bằng ngôn ngữ thành một mệnh đề, bao gồm lượng từ, chủ từ, hệ từ và vị từ, trong đó hệ từ đóng vai trò quan trọng nhất vì nó biểu hiện mối quan hệ của sự vật được phản ánh. Phán đoán được phân chia thành ba loại cơ bản: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến.

           Suy lý là hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó các phán đoán đã liên kết với nhau theo quy tắc: phán đoán cuối cùng (kết luận) được suy ra từ những phán đoán đã biết làm tiền đề. Có hai loại suy luận chính là: quy nạp và diễn dịch. Suy lý là phương thức quan trọng để tư duy của con người đi từ cái đã biết đến cái chưa biết một cách gián tiếp, rút ngắn thời gian trong việc phát hiện tri thức mới.

Như vậy, nhận thức lý tính khác với nhận thức cảm tính ở chỗ, nó đã phản ánh, khái quát, trừu tượng, gián tiếp sự vật, hiện tượng trong tính tất yếu, chỉnh thể toàn diện. Do đó, nhận thức lý tính phản ánh sự vật hiện tượng sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn so với nhận thức cảm tính.

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại có sự thống nhất chặt chẽ với nhau. Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, ngược lại nhờ có nhận thức lý tính mà con người mới đi sâu được vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong thực tiễn cần tránh cường điệu hóa, tuyệt đối hóa vai trò của cảm tính, hạ thấp và phủ nhận vai trò của lý tĩnh và ngược lại. Bởi quá đề cao nhận thức cảm tính sẽ rơi vào duy cảm, quá đề cao nhận thức lý tính thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy lý cực đoan.

Sự thống nhất giữa trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn.

Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Trong đó thực tiễn vừa là nơi bắt đầu cũng là khâu kết thúc của quá trình nhận thức, hơn thế còn có vai trò kiểm tra chân lý. Các vòng khâu đó diễn ra liên tục, tiếp nối nhau, đảm bảo cho quá trình nhận thức ngày càng hoàn thiện, sâu sắc hơn. Đây cũng là quá trình giải quyết những mâu thuẫn của quá trình nhận thức, đó là mâu thuẩn giữa biết và chưa biết, biết ít và biết nhiều, giữa đúng và sai… Cứ thế, khi mâu thuẫn được giải quyết thì nhận thức của con người càng tiệm cận hơn với chân lý.

* Quan niệm về chân lý

Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, chân lý là tri thức phù hợp với hiện thực khách quan mà con người phản ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm. Vì sự vật luôn tồn tại trong quá trình vận động, nên chân lý là một quá trình, do đó nhận thức chân lý cũng phải là một quá trình.

* Các tính chất của chân lý

Tính khách quan.

Chân lý là quá trình phản ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, chân lý bao giờ cũng mang tính khách quan. Về nội dung này V.I.Lênin nhấn mạnh: “Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý không phụ thuộc vào con người và loài người”[31], “là người duy vật, có nghĩa là thừa nhận chân lý khách quan”[32].

Tính tương đối và tính tuyệt đối.

Tính tương đối thể hiện những tri thức của chân lý có thể đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, mà chỉ mới phản ánh được một mặt, một khía cạnh của hiện thực khách quan trong những điều kiện thời gian, không gian xác định. Tính tuyệt đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đã phản ánh đầy đủ, toàn diện hiện thực khách quan ở một giai đoạn lịch sử cụ thể xác định. Theo đó, con người ngày càng đến gần chân lý tuyệt đối chứ không thể đạt đến chân lý tuyệt đối một cách trọn vẹn.

Tính cụ thể.

Không có chân lý chung chung, trừu tượng, chân lý luôn luôn rõ ràng, cụ thể. Bởi chân lý chính là sự phản ánh hiện thực khách quan và được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Do đó, chân lý phải luôn phản ánh sự vật, hiện tượng ở những điều kiện cụ thể, trong không gian và thời gian cụ thể. Nếu thoát khỏi những điều kiện cụ thể này thì sẽ không còn phản ánh đúng sự vật, cũng không còn là “chân lý” nữa. Từ đó, cần quán triệt nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động, chống giáo điều, rập khuôn, máy móc, xa rời thực tế.

           5. Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng trong công tác Công an

Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức chân lý đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm thực tiễn.

* Nội dung quan điểm thực tiễn:

           Thứ nhất, việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.

           Thứ hai, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.

           Thứ ba, tránh khuynh hướng xa rời thực tiễn, dẫn tới bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Đồng thời, tránh tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, dẫn tới chủ nghĩa nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.

           * Vận dụng quan điểm thực tiễn trong công tác Công an:

Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực an ninh trật tự, cũng như việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của ngành về các lĩnh vực công tác phải xuất phát từ tình hình thực tiễn, từ yêu cầu thực tiễn đặt ra, đảm bảo việc chỉ đạo, định hướng hoạt động một cách hiệu quả.

Các hoạt động của công tác công an phải bám sát thực tiễn đang diễn ra ở trong nước và trên thế giới, đặc biệt là tình hình thực tiễn trên các lĩnh vực, các địa bàn công tác.

Hoạt động nghiên cứu lý luận khoa học an ninh cần được đẩy mạnh trên cơ sở bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn để bổ sung, phát triển và kiểm nghiệm tính đúng đắn, giá trị thực tiễn của lý luận. Lý luận phải tập trung giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra trong công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh của lực lượng Công an, tránh giáo điều, duy ý chí, đồng thời cũng không tuyệt đối hóa thực tiễn, dẫn tới tính thực dụng, nhất thời trong tư duy lý luận.

Các lực lượng Công an cần đặc biệt coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn về mọi mặt công tác, đặc biệt tổng kết theo chuyên đề, lĩnh vực có tính chuyên sâu nhằm đánh giá đúng tình hình, phát hiện những bất cập trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các đối tượng có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm, phương hướng nâng cao hiệu quả các mặt công tác của lực lượng Công an.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, công tác của lực lượng Công an ngày càng khó khăn, nguy hiểm, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân cần tích cực, chủ động học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác bảo đảm an ninh trật tự.

CHƯƠNG III

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Quan niệm duy vật về lịch sử là một trong những phát kiến vĩ đại của C.Mác. Đã có nhiều nghiên cứu trước Mác về xã hội với nhiều tư tưởng triết học xã hội có giá trị, là tiền đề, điều kiện để triết học macxit kế thừa, hình thành và phát triển quan điểm duy vật lịch sử. Tuy nhiên, do hạn chế của lịch sử, các nhà triết học trước Mác thường chỉ giải thích lịch sử xã hội theo lập trường duy tâm, dựa trên thuyết định mệnh, tức là quy nguyên nhân sự phát triển của xã hội là do tư tưởng, hoặc các cá nhân, anh hùng có tính quyết định, từ đó tìm đến các biện pháp cải tạo xã hội ở lĩnh vực tinh thần. Các nhà triết học duy vật trước Mác thường sử dụng phương pháp tư duy siêu hình để xem xét bản chất con người và xã hội. Họ quy bản chất con người vào bản tính tự nhiên, từ đó mà tuyệt đối hóa vai trò của hoàn cảnh địa lý, tự nhiên trong sự phát triển xã hội, hoặc áp dụng quy luật tự nhiên, sinh học một cách rập khuôn, máu móc vào đời sống xã hội. Đặc biệt, các nhà triết học duy vật trước Mác không xuất phát từ hoạt động thực tiễn nên không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn tạo nên sự phát triển có tính cách mạng của con người.

Thời đại ngày nay có nhiều học giả quan tâm và luận giải về con đường và quy luật phát triển của xã hội loài người. Một số học giả theo thuyết kỹ trị đã tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố kỹ thuật và coi đây là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Một số học giả phương Tây hiện đại như R.Arazon, I.Ganbrautơ, Rostow vẫn tiếp tục coi kỹ thuật, công nghệ là yếu tố quyết định. Nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler tiếp cận theo góc độ các nền văn minh, từ đó chia lịch sử loài người thành ba nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.

Vượt qua các cách tiếp cận trên, C.Mác phát hiện ra rằng quy luật vận động của lịch sử loài người là hết sức đơn giản. Ông khẳng định “con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v…”[33]. Những nhu cầu đó muốn được đáp ứng phải cần tới hoạt động sản xuất vật chất. Từ đây, C.Mác kết luận lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sản xuất vật chất, nghiên cứu xã hội phải xuất phát từ con người hiện thực, sống và hoạt động thực tiễn, từ đó các ông xây dựng nên các quan điểm duy vật về lịch sử, được xem là một phát kiến vĩ đại của loài người. 

I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và cũng là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa Mác; nó là sự thể hiện tập trung nhất quan niệm duy vật về lịch sử - một trong hai phát minh vĩ đại của C.Mác. Kế thừa thành tựu của những người đi trước trong việc nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là xã hội tư bản, C.Mác đã xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.

Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đặc trưng cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử loài người. Hình thái kinh tế - xã hội được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, trong đó bao gồm những yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Những bộ phận này tác động lẫn nhau theo những quy luật khách quan.

1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội

a. Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất

- Sản xuất vật chất:

Các nhà kinh điển đã khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đây là một nguyên lý cơ bản, là điểm xuất phát trong nghiên cứu xã hội. Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người.

Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất diễn ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Ph.Ăngghen khẳng định: "Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác và tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn. Nếu như có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định, thì họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, vô nghĩa”[34].

Sự sản xuất xã hội, tức là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người.

Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. Cùng với sản xuất vật chất, con người tiến hành sản xuất tinh thần. Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Đồng thời, cùng với hai phương diện sản xuất cơ bản nói trên, xã hội còn phải sản xuất ra bản thân con người. Sự sản xuất ra bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái để duy trì nòi giống. Ở phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tính cách là thực thể sinh học - xã hội.

Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Theo Ph. Ăngghen, "điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất”[35].

Như vậy, sản xuất vật chất là một trong những loại hoạt động đặc trưng của con người - đó cũng chính là một loại hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Với ý nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.

- Phương thức sản xuất

Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.

Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai mối quan hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”[36]. Do vậy, phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động giữa con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của nó với những đặc điểm riêng. Phương thức sản xuất của người nguyên thủy có đặc trưng là cách thức kỹ thuật đánh bắt tự nhiên còn ở trình độ hết sức thô sơ, còn phương thức sản xuất trong xã hội hiện đại lại có đặc trưng ở trình độ kỹ xảo công nghiệp và công nghệ cao. Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế của nó. Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản xuất; còn phương diện kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật chủ yếu của quá trình sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và khép kín về phương diện kinh tế. Ngược lại, trong các xã hội hiện đại, quá trình sản xuất lại được tiến hành với phương thức kỹ thuật công nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường với những quy mô ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc vào nhau giữa các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội.

b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội

- Vai trò của sản xuất vật chất:

Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người.

Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội; là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C. Mác đã xuất phát từ "con người hiện thực" và đi đến kết luận rằng: tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi quá trình lịch sử đó là việc "con người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất"[37]. Cũng vì vậy, có thể nói con người với tư cách "người", được bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.

Để tiến hành quá trình sản xuất vật chất - tức quá trình cải biến giới tự nhiên, con người tất yếu phải thiết lập nên những mối quan hệ nhất định với nhau, đó chính là những quan hệ sản xuất và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà làm phát sinh những mối quan hệ xã hội khác: chính trị, đạo đức, pháp luật, ... Theo C. Mác, "việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và do thế, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại đều tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta"[38]. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất của xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ thực trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trình độ cao hơn nền sản xuất phong kiến chính là vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất dựa vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất công nghiệp và hình thức tổ chức kinh tế thị trường ngày càng hiện đại, cũng nhờ đó mà nó có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn rất nhiều phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao động căn bản là thủ công với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Chính vì vậy mà có thể nói: các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ nó được tiến hành bằng cách nào với công cụ gì.

 Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất, từ nền sản xuất vật chất xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần; để phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế - vật chất.

- Vai trò của phương thức sản xuất

Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó là với trình độ phát triển của đời sống xã hội nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lịch sử thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất. Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quả trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn: "Phương thức sản xuất Á châu, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại",... Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế phát triển của các phương thức sản xuất cũng chính là quy luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước bỏ qua một hoặc một vài phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản xuất có tính chất phổ biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện của tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển của mỗi cộng đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú đa dạng như thế nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển phải trải qua những con đường vòng nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi lên từ phương sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao hơn.

2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân thuộc về người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,... của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,...). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất.

* Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.

Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện năng lực của con người trong chinh phục tự nhiên, là nội dung của phương thức sản xuất.

Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.

Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.

Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.

Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.

Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.

Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.

Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất "trung gian", "truyền dẫn" giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là "khí quan" của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển, công cụ lao động được tin học hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử; là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, C.Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”[39].

 Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thì người lao động do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất.

Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu được, đặc biệt, trình độ phát triển của công cụ lao động là một nhân tố quyết định năng suất lao động xã hội. Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ.

Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.

Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ phân công lao động xã hội. Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là không tách rời nhau.

Nghiên cu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, C.Mác khẳng định: "Tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp"[40].Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển, cả người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hoá, nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đời sống xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển trong mối quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất.

Như vậy, lực lượng sản xuất chính là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu một trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà còn cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất ấy.

 * Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với ngư­ời trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất - quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người.

Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư­ liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.

b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau thể hiện ở chỗ mọi lực lượng sản xuất (người sản xuất, công cụ sản xuất, đối tượng sản xuất, phương tiện sản xuất) đều nằm trong những quan hệ nhất định nào đó của quan hệ sản xuất (đều nằm trong một tổ chức sản xuất, dưới sự quản lý của một đơn vị sản xuất nào đó); ngược lại, mọi quan hệ sản xuất đều là những quan hệ nhất định của một lực lượng sản xuất nào đó, nó phải chứa đựng một nội dung nào đó.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất, có tác động biện chứng. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Trong mối quan hệ này, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

Lực lượng sản xuất suy cho cùng quyết định quan hệ sản xuất. Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:

 Thứ nhất, lực lượng sản xuất thay đổi, sớm muộn cũng kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất, vì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức, nội dung quyết định hình thức. Phân tích sâu thêm, ta thấy mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, tức lực lượng sản xuất, xét đến cùng, qui định mối quan hệ giữa con người với con người, tức quan hệ sản xuất. Điều đó có nghĩa là mức độ chinh phục của con người đối với giới tự nhiên (rộng hay hẹp, ít hay nhiều) qui định mức độ quan hệ giữa con người với con người (rộng hay hẹp, ít hay nhiều). Quan hệ giữa con người với con người trong thời đại tự động hóa, khác quan hệ giữa con người với con người trong thời đại thủ công. Nói cách khác, thời đại kinh tế khác nhau thì quan hệ giữa con người với con người cũng khác nhau. Đó là bí mật mà C.Mác đã phát hiện ra.

Thứ hai, tư liệu sản xuất đặc biệt là công cụ lao động, nó qui định cách thức tổ chức quản lý sản xuất. Đối với cái cối xay chạy bằng hơi nước có cách tổ chức quản lý khác với đối với cái cối xay chạy bằng tay. Điều này còn thể hiện rõ nét trong lĩnh vực quân sự, khi xuất hiện vũ khí mới thì cách thức tổ chức quân đội cũng sẽ khác trước.

Thứ ba, trình độ khoa học kỹ thuật khác nhau cũng sẽ đưa lại cách thức tổ chức quản lý khác nhau.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển. C.Mác đã nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[41].

* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó có đời sống riêng của nó; nó có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành với sự phát triển của lực lượng sản xuất; nhưng nhìn chung, nó thường thay đổi chậm so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Thứ hai, quan hệ sản xuất qui định trực tiếp mục đích xã hội của nền sản xuất; qui mô, tốc độ, hiệu quả, xu hướng, nhịp điệu của sản xuất; qui định khuynh hướng phát triển của công nghệ. Chẳng hạn, ai, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì họ đề ra mục tiêu, qui mô, tốc độ sản xuất có lợi cho người đó, giai cấp đó.

Thứ ba, nếu phân phối hợp lý theo đúng hiệu quả lao động mà người ta bỏ ra thì có thể kích thích sự hăng say làm việc, kích thích sáng chế phát minh, cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, khiến cho lực lượng sản xuất phát triển.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.

* Ý nghĩa trong đời sống xã hội

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.

Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hệ xã hội, bao gồm các quan hệ vật chất và các quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ vật chất với các quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.

a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.

C.Mác chỉ rõ: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó"[42]. Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội khác. Từ đó cho thấy cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực.

Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho phương thức sản xuất, các quan hệ sản xuất đan xen cũng như các quan hệ sản xuất tàn dư và các quan hệ sản xuất tương lai dưới dạng mầm mống đang tồn tại trong xã hội đó.

Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… cùng những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố về quan điểm tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng với những quan hệ nội tại trong các yếu tố đó hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội.

Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh những cơ sở hạ tầng nhất định. Song, không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó. Một số bộ phận như kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý có mối liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức, v.v. lại có liên hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước là công cụ quyền lực của  giai cấp thống trị về kinh tế.

Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành một sức mạnh thống trị toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng, cùng những thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần xã hội và cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng.

b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, bởi lẽ cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là cơ sở hạ tầng của một kiến trúc thượng tầng nhất định; Ngược lại, kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng là kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

* Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng suy cho cùng quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải biến đổi theo. C.Mác cho rằng cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Ông còn cho rằng không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó đều bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất…. Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội. Đây chính là quan điểm duy vật triệt để của C.Mác.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng sản sinh ra kiến trúc thượng tầng. Quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định quan hệ về chính trị, pháp quyền, tư tưởng; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, qui định mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.

Thứ ba, cơ sở hạ tầng qui định tính chất của kiến trúc thượng tầng; giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế, giai cấp đó chiếm địa vị thống trị trong kiến trúc thượng tầng.

 * Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức, hình thức, điều này tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức và hình thức tác động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố nhà nước và pháp luật mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.

Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu hướng và mục tiêu, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế độ xã hội hiện thời, lại có sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và có xu hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh trong một phạm vi và mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng dù diễn ra với những xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rất cuộc nó không thể giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội; cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.

Nghiên cứu biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để khẳng định lịch sử vận động phát triển của xã hội (về cơ bản – xét trong xã hội có gia cấp) là lịch sử của các nền kinh tế, chính trị văn hóa xã hội khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện kịch sử nhất định.

* Ý nghĩa trong đời sống xã hội

Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Hạt nhân của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính là mối liên hệ giữ kinh tế và chính trị. Kinh tế là tổng thể các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối; tổng thể các mối quan hệ trong quá trình sản xuất. Như vậy, theo nghĩa rộng, kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi. Theo nghĩa hẹp, thực chất của kinh tế là lợi ích, là sở hữu, là hạt nhân của cơ sở hạ tầng. Chính trị là quan hệ các giai cấp, các lực lượng chính trị; quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia xung quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị mà tập trung ở quyền lực nhà nước. Như vậy, chính trị, thực chất là giải quyết các quan hệ chính trị nhằm giành lấy quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước để giải quyết các quan hệ lợi ích, chủ yếu là lợi ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng cầm quyền. Kinh tế và chính trị liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau; không có kinh tế tách rời chính trị; ngược lại, không có chính trị tách rời kinh tế. Như vậy, không có kinh tế và chính trị thuần túy, tách rời nhau.

Xét đến cùng kinh tế (không phải là yếu tố duy nhất) gữi vai trò quyết định đối với chính trị; kinh tế thay đổi, sớm muộn chính trị cũng phải thay đổi theo. Trình độ kinh tế nhất định sẽ có một trình độ chính trị nhất định tương ứng; chính trị suy cho cùng là sản phẩm của kinh tế. Theo Ph.Ăngghen, lĩnh vực mà chúng ta nghiên cứu càng xa rời lĩnh vực kinh tế, đi gần tới lĩnh vực tư tưởng trừu tượng thuần tuý chừng nào thì chừng đó chúng ta lại càng nhìn thấy sự ngẫu nhiên trong quá trình phát triển của nó, khi đó đường biểu diễn của nó càng đi theo đường chữ chi. Nhưng nếu vạch đường trục trung bình của đường biểu diễn, sẽ thấy rằng thời gian nghiên cứu càng dài, lĩnh vực nghiên cứu càng rộng thì cái trục đó sẽ càng đi gần cái trục của sự phát triển kinh tế.

Chính trị có tính độc lập tương đối của nó, nó có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành, thậm chí vượt trước kinh tế, nhưng nhìn chung nó thay đổi chậm so với kinh tế. Chính trị là một trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất; nó có tác động trở lại kinh tế.  Chính trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại trong việc vận dụng các qui luật khách quan; tạo điều kiện, môi trường pháp lý cho sự phát triển của kinh tế; khi nắm bắt được các qui luật kinh tế, chính trị có thể định hướng, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp, bước đi cho sự phát triển của kinh tế. Không có định hướng chính trị thì kinh tế sẽ dễ rối loạn. Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ các vấn đề then chốt của kinh tế, như ngân sách, vốn, tiền tệ, tài chính. Chính trị thông qua nhà nước tác động đến kinh tế theo ba khả năng: cùng chiều (thúc đẩy); ngược chiều (kìm hãm); một số cùng chiều, một số ngược chiều (vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm). Trong lịch sử, chúng ta thấy, thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Hồ Chí Minh cho rằng chăm lo phát triển kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Theo Bác, chính trị phải đi đầu (tư tưởng phải thông suốt), chính trị tốt thì sản xuất mới được tốt.

Như vậy, đường lối chính trị thể hiện rõ nhất ở đường lối kinh tế. Ở nước ta từ 1975 đến 1986, cả trong lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế, ta mắc bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội; tức làm ngược, dùng chính trị tiên tiến kéo quan hệ sản xuất lạc hậu (cách mạng quan hệ sản xuất là hàng đầu trong ba cuộc cách mạng), dùng quan hệ sản xuất tưởng là tiên tiến để kéo lực lượng sản xuất lạc hậu bằng cách xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường; hậu quả là khủng hoảng kinh tế, từ đó dẫn đến khủng hoảng xã hội; khiến cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, “tiến” mà không “thẳng”, “bỏ” mà không “qua”. Đó cũng là sai lầm chung của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước kia, sau khi hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc lại chú trọng quá mức đến chính trị mà ít quan tâm đến kinh tế, ít chú trọng phát triển lực lượng sản xuất,  xa rời phát triển sức sản xuất.

Ngày nay, nhờ có đường lối chính trị đúng đắn với chủ trương kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, mà chúng ta đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, chính trị xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia ngày càng tăng thêm, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng chính trị đúng đắn phải có phải có cơ chế, bước đi, lộ trình thực hiện thích hợp để hiện thực hóa các mối quan hệ trong đời sống xã hội. Và luôn luôn lưu ý, xét đến cùng chính trị vẫn bị quyết định bởi kinh tế. Nếu không vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, hoặc chủ nghĩa duy kinh tế.

4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên

a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

Trước C.Mác, các nhà xã hội học và sử học thường nói về mục đích và sự tiến bộ xã hội một cách trừu tượng theo quan điểm duy tâm chủ quan. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời loài người mới có một lý luận thực sự khoa học để nhận thức được đúng bản chất của xã hội, phân tích được những quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người.

Từ những tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã tiếp tục phát triển, làm phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở khẳng định tư tưởng của Mác, Lênin đã chỉ ra những sai lầm của các nhà xã hội học trước Mác là không biết xuất phát từ những quan hệ giản đơn là quan hệ sản xuất mà đi thẳng vào nghiên cứu những hình thức chính trị, pháp luật, vào việc hình thành những hình thức đó từ những tư tưởng này, tư tưởng nọ của loài người trong thời đại nào đó và đến đấy thì họ dừng lại, kết quả là quan hệ xã hội dường như do con người tạo ra một cách có ý thức.

Vì đóng khung quan hệ xã hội vào quan hệ tư tưởng, những người xã hội học chủ quan không thấy được tính lặp lại của những hiện tượng xã hội ở những nước khác nhau, từ đó họ quy khoa học chỉ là miêu tả những hiện đó. V.I.Lênin đã chỉ ra việc tách quan hệ sản xuất ra với tư cách là quan hệ cơ bản, quyết định quan hệ tư tưởng cho phép ứng dụng tiêu chuẩn được lặp đi lăp lại để khái quát các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử và quy vào khái niệm “Hình thái kinh tế - xã hội”.

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất: quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng.

Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.

Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.

Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.

b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người

Về tính tự nhiên của tiến trình phát triển xã hội loài người, các quá trình phát triển đều diễn ra một cách tự nó, tuân theo những qui luật khách quan vốn có, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; còn các quá trình phát triển trong xã hội đều có sự tham gia tích cực của con người. Con người không chỉ tham gia mà còn sáng tạo ra lịch sử, nhưng không phải sáng tạo một cách tuỳ tiện, chủ quan, mà sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề vật chất nhất định, phù hợp với qui luật khách quan (tránh chủ nghĩa chủ quan cũng như khách quan thuần tuý).

Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người, là tổng số những mối liên hệ, quan hệ của các cá nhân. Nhưng những cá nhân này luôn có những lợi ích, ý chí, nguyện vọng, mong muốn chủ quan không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau; điều mà người này muốn lại bị người kia cản trở; và xu hướng phát triển của xã hội, cuối cùng xuất hiện ra như là một cái mà không có ai mong muốn cả, không theo ý muốn chủ quan của người này người nọ; bởi vậy, cho đến nay, lịch sử đã phát triển theo kiểu một quá trình tự nhiên, và về căn bản, cũng bị chi phối bởi cùng những qui luật vận động như tự nhiên. Chính vì vậy, C.Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"[43].

Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên là quá trình diễn ra một cách khách quan, tuân theo những qui luật vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người..

Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội tuân theo những qui luật khách quan (qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng qui định kiến trúc thượng tầng, qui luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, .v.v.. ), không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, nó đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, từ cộng sản nguyên thủy lên phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa, bởi vậy, nó cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Trong những qui luật này thì qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quan trọng nhất. V.I.Lênin cho rằng chỉ có đem qui những quan hệ xã hội về quan hệ sản xuất, đem qui quan hệ sản xuất về trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

Nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn thế giới, thì lịch sử loài người phát triển tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội. Song, do đặc điểm lịch sử - cụ thể, thì không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội mà có thể phát triển theo con đường "bỏ qua" một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Đó là  khả năng "phát triển rút ngắn".

Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử. Xu hướng cơ bản, xu hướng chung của sự vận động, phát triển lịch sử loài người là do sự chi phối của quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung với cái đặc thù và cái riêng) xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgíc của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của tiến bộ lịch sử. Mặt khác, sự phát triển của xã hội loài người còn mang tính lịch sử. Các hình thái kinh tế - xã hội như những trạng thái khác nhau về chất trong tiến trình lịch sử, với những điều kiện về không gian, thời gian cụ thể, với các tiêu chí về sự phát triển của lực lượng sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội cụ thể.

Sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.

Sự phát triển phong phú, nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể của các giai đoạn xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những bước thụt lùi lớn, khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Theo V.I.Lênin: “Tính quy luật chung của sự phát triển lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm về hình thức hoặc về trật tự của sự phát triển đó”[44]. Bản chất của việc "bỏ qua" một hay vài hình thái kinh tế - xã hội sự phát triển rút ngắn xã hội. Đó là rút ngắn các giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có. Nhưng do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, nhưng có những quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.

 Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn, đồng thời bên cạnh đó còn có những vùng, những quốc gia, dân tộc ở trình độ phát triển thấp, thậm chí rất thấp. Do sự giao lưu, hợp tác quốc tế mà giữa các trung tâm, các khu vực, các quốc gia xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử. Quy luật kế thừa sự phát triển lịch sử luôn luôn cho phép các quốc gia, dân tộc có thể bỏ qua các giai đoạn phát triển không cần thiết để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Tuy nhiên việc phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội, bên cạnh những điều kiện khách quan của thời đại, còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia, dân tộc.

Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử xã hội. Phát triển là xu hướng tất yếu, cơ bản của lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang phát triển cuối cùng của xã hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người. Những tiền đề vật chất cho sự vận động phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư bản. Đó là lực lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách mạng, đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tiền đề lý luận cho sự vận động phát triển xã hội đã xuất hiện, đó là hệ tư tưởng Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.

c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân của nó là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung.

Không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.

Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động, trong đó các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.

Để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học - xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học,... ) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.

Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.

Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội. V. I. Lênin từng nhấn mạnh rằng: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cẩn phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó"[45].

Thứ tư, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở để phê phán các quan điểm sai lầm.

Trước sự phát triển của khoa học và công nghệ từ những năm 50 của thế kỷ XX, một số nhà xã hội học phương Tây đã đưa ra những tiêu chí mới khi tiếp cận xã hội, hòng phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Họ giải thích sự tiến hóa của lịch sử như là sự thay thế lẫn nhau giữa nền văn minh nông nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp (tin học, trí tuệ).

Cách tiếp cận này sai lầm cơ bản là chỉ coi sự phát triển của kinh tế, của trình độ khoa học công nghệ là yếu tố duy nhất quyết định sự thay đổi mới của đời sống xã hội. Lý thuyết này cố ý bỏ qua vấn đề bản chất xã hội nhằm chứng minh sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản.

Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V. I. Lênin từng dạy rằng: lý luận đó "không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử"[46].

 Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con đường phát triển của Việt Nam đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, có khả năng và điều kiện để thực hiện. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài người. Bản chất của sự phát triển rút ngắn xã hội là rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Qua quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu của nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”[47].

 Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học trong quán triệt quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mô hình, mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định với các tiêu chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Đồng thời xác định các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến diện về xã hội. Phê phán thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật, xoá nhoà sự khác nhau về bản chất của các chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ tư bản.

Ngày nay thực tiễn xã hội và sự phát triển của nhận thức khoa học đã bổ sung, phát triển mới các quan niệm lịch sử xã hội, song lí luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội, là cơ sở nền tảng lí luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học.

Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại các quan điểm phiến diện, sai lầm, phản động hòng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

* Ý nghĩa đối với công tác Công an

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác là học thuyết “vĩ đại nhất” trong triết học lịch sử - nó mang tính khoa học, cách mạng cho mọi thời đại, vạch ra con đường khách quan và sự hiện diện tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai. Trước những tác động mạnh mẽ của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nhất là lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại, các học giả tư sản, kẻ thù lý luận đang tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng, xuyên tạc, bóp méo hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng ta. Vì vậy, người cán bộ công an cần phải có trình độ nhận thức và bản lĩnh để đấu tranh đập tan các luận điệu đó.

- Người cán bộ công an cần phải nắm chắc hệ thống lý luận, hiểu sâu sắc lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, con đường phát triển chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn, bảo vệ nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cụ thể là:

+ Nắm vững và hiểu bản chất cách mạng, khoa học của sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. C. Mác cho rằng: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.

+ Việt Nam lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là đúng đắn, hợp quy luật khách quan.

- Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.

+ Do ý thức hệ của giai cấp thống trị, bóc lột có quan điểm đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp.

+ Nhào nặn vô căn cứ các học thuyết, trào lưu triết học để biện hộ cho sự tồn tại của giai cấp bóc lột, tuyên truyền, bác bỏ chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn như một số luận điểm phản động sau:

Thứ nhất, các thế lực thù địch cho học thuyết về lịch sử của chủ nghĩa Mác là một phiên bản thế tục của thuyết quyết định luận.

Nói như vậy là sai, phản khoa học vì “quyết định luận” của chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: “ý chí” siêu thực, siêu nhiên nào đó quyết định mọi sự tồn tại, còn chủ nghĩa Mác cho rằng cái quyết định sự vận động của xã hội là từ sản xuất vật chất, từ điều kiện phát triển kinh tế sâu xa là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ, cách mạng với quan hệ sản xuất lạc hậu trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

* Họ cho chủ nghĩa Mác là giấc mơ về xã hội không tưởng, nó đặt niềm tin vào một xã hội hoàn hảo không có khổ cực đau buồn, không bạo lực và không mâu thuẫn,...đó là cách nhìn nhận ngây thơ, ấu trĩ vào bản chất của con người.

Đó là luận điệu xuyên tạc, phản khoa học. Mục tiêu của chủ nghĩa Mác là xóa bỏ mọi sự bất công, bóc lột trong xã hội và như vậy phải xóa bỏ giai cấp bóc lột tiến tới xây dựng một xã hội không có giai cấp. Vậy không phải là một giấc mơ mà là một hiện thực khi giai cấp vô sản viết lên lá cờ của mình “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Những lý luận trên của các học giả tư sản chỉ biện hộ cho sự bóc lột tối đa của bọn tư bản tài phiệt mà thôi (hiện nay 1% dân số nước Mỹ chiếm 60% tài sản nước Mỹ, chiếm 96% cổ phiếu toàn nước Mỹ, thao túng tất cả. Vậy không ai quá “ngây thơ” để cố tình không hiểu bản chất xấu xa của giai cấp thống trị bóc lột).

- Lực lượng CAND cần thực hiện tốt các chức năng cơ bản:

+ Tham mưu cho các cấp chính quyền không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác phát hiện các tổ chức, lực lượng chống phá hệ tư tưởng Mác - Lênin; chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

+ Trực tiếp đấu tranh với các thế lực thù địch bằng các hình thức: Trực tiếp tiếp cận đối tượng để đấu tranh; bố trí các lực lượng phản bác những tư tưởng sai trái; dùng sức mạnh của quần chúng nhân dân...

+ Tăng cường công tác bảo vệ rà soát, thanh lọc nội bộ, vô hiệu hóa ảnh hưởng của các tổ chức, cá nhân có tư tưởng sai trái.

+ Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; xây dựng lòng tin trong cán bộ, chiến sĩ về sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, của hệ tư tưởng Mác - Lênin để họ hết lòng bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam.

II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

Giai cấp và dân tộc là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế được nhau. Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại nói chung, giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm song khi giai cấp mất đi thì dân tộc sẽ vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, giữa giai cấp và dân tộc lại có mối liên hệ mật thiết, tác động biện chứng qua lại với nhau. Trong lịch sử của loài người nói chung từ khi xuất hiện các giai cấp cho thấy, vấn đề dân tộc luôn luôn được xem xét và giải quyết trên lập trường của một giai cấp nào đó.

Là học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng các dân tộc và toàn nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột, chủ nghĩa Mác - Lênin đã có sự luận giải sâu sắc về mối quan hệ giai cấp - dân tộc. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, giữa giai cấp và dân tộc thì nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc, áp bức giai cấp là cơ sở của áp bức dân tộc nhưng vấn đề dân tộc cũng là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản… Những luận điểm về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp

a. Giai cấp

* Định nghĩa giai cấp

Cần khẳng định ngay rằng, C.Mác không phải là người đầu tiên phát hiện ra xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Các nhà tư tưởng trước Mác đã phát hiện và xây dựng nhiều quan điểm có giá trị về giai cấp trong xã hội.

- Quan điểm phi macxit:

Ở phương Đông, quan niệm về giai cấp hình thành khá sớm ở Trung Quốc, từ tr.CN, Khổng Tử (551-479 trCN) phân chia xã hội thành tứ dân (sỹ - nông - công - thương). Sự phân chia này không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu mà theo ngành nghề. Đây cũng là bậc thang giá trị xã hội. Nó phản ánh một nền kinh tế tiểu nông khép kín, tự cấp tự túc, công thương nghiệp chưa phát triển.

được xếp là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp trí thức, những người có học, có hiểu biết về chữ nghĩa (thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò). Tầng lớp này nhìn chung có cuộc sống nhàn nhã, suốt ngày chăm chỉ đọc sách thánh hiền, làm văn, ngâm thơ và gần như không tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất. Những con người bình dân muốn thay đổi cuộc sống gần như chỉ có con đường duy nhất là học và thi khoa cử. Trong gia đình kẻ sĩ, người vợ phải tần tảo sớm hôm lo việc đồng áng, canh cửi để nuôi chồng. Nếu chồng thi đậu khoa cử, người vợ sẽ trở thành bà thám, bà bảng hay là mợ cử, mợ tú. Nếu chồng thi trượt, người vợ vẫn có thể hãnh diện với danh vợ thầy đồ làng hay là vợ tú tài.

Nông là chỉ những người nông dân cày ruộng, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội xưa. Đa phần những người nông dân quanh năm suốt tháng lao động chân lấm tay bùn, vất vả sớm trưa nhưng nhiều khi không đủ ăn do những gánh nặng về thuế khoá, lao dịch hay thiên tai, mất mùa. Nông có sự phân hoá thành 3 loại chính:

   Trung nông: những người có ruộng đất riêng, sở hữu công cụ sản xuất, tự làm, tự ăn, không phải đi làm thuê đồng thời cũng không tham gia bóc lột.

Bần nông: những người chỉ sở hữu ít ruộng đất, phải đi canh tác thêm trên ruộng đất của địa chủ, phải thuê mướn trâu bò và nông cụ sản xuất.

Cố nông: là những người nghèo khổ nhất tầng lớp nông dân và có thể nói là cả xã hội, không có ruộng đất cũng như công cụ sản xuất, họ sử dụng sức lao động đi làm thuê cho chủ để kiếm ăn.

Công là chỉ những người làm thủ công nghiệp, làm thuê trong các làng nghề truyền thống như dệt, chạm bạc, khâu nón, làm tranh... Họ được xếp vào hàng thứ ba trong tứ dân bởi số lượng ít do thực tế trong xã hội thời xưa chỉ tồn tại những làng nghề thủ công ở quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp của làng xã. Ở thành thị, những người thợ này tập hợp thành "phường" để bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau, còn ở nông thôn, những thợ thủ công phần nhiều vẫn là những người nông dân, họ tranh thủ làm thêm để cải thiện cuộc sống những lúc nông nhàn.

Thương là những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã hội, xuất phát từ thực tế nền kinh tế tự cung, tự cấp và tính tự trị của làng xã gần như không có nhu cầu trao đổi hàng hoá ra khỏi phạm vi cư trú, những người hành nghề buôn bán do đó phải năng động, sòng phẳng, thậm chí gian lận mới có lãi. "Buôn gian bán lận" đã trở thành cụm từ phổ biến cho tới tận ngày nay, đó là điều mà một xã hội thuần nông coi trọng lễ nghĩa không muốn chấp nhận. 

Ở phương Tây, hiện tượng xã hội phân chia thành giai cấp đã được các nhà tư tưởng phi macxit phản ánh trong học thuyết của mình. Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, quan điểm về giai cấp lại càng rõ ràng hơn. Trước Mác, có nhiều cách giải thích khác nhau về sự phân chia xã hội thành các giai cấp: nguyên nhân sinh vật học, địa vị xã hội khác nhau về bản chất giữa các tập đoàn người trong xã hội, dẫn đến việc chưa chỉ rõ được thực chất của sự phân biệt giai cấp. Tomat Morơ, Campanenla, Rutxơ nhìn thấy quyền tư hữu là gốc rễ của những tai họa. Xanh Ximong xác lập quyền sở hữu là cơ sở của kiến trúc thượng tầng xã hội. S.Phurie đã phát hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, “sự nghèo khổ được sinh ra từ sự thừa thãi”. Trên cơ sở cái nhìn biện chứng, ông đã dự đoán xã hội văn minh tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng chế độ xã hội mới mà ông gọi là “chế độ xã hội được đảm bảo” hay “xã hội hài hòa”.

Công lao lớn nhất trong việc phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp lại thuộc về những nhà sử học lãng mạn của Pháp giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX: Các nhà sử học như Chieri, Ghido, Gion, Uêđơ … đã trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, trong đó Mác gọi Chieri là bố đẻ của đấu tranh giai cấp. Các ông cho rằng lịch sử xã hội phong kiến và sự hình thành xã hội tư sản là lịch sử cuộc đấu tranh thứ ba chống quý tộc và tăng lữ.

Nghiên cứu quá trình vận động lịch sử ấy, các nhà sử học lãng mạn phát hiện ra các khái niệm cơ bản như: giai cấp, đấu tranh giai cấp, quan hệ sở hữu tài sản là nguồn gốc đấu tranh giai cấp. Họ nhận ra rằng, trong xã hội có những tập đoàn người có lợi ích và địa vị khác nhau, hình thành nên các giai cấp khác nhau. Trong đó, Chieri phân chia xã hội thành ba đẳng cấp: quý tộc, tăng lữ và toàn bộ số nhân dân còn lại mà người tư sản là trung tâm. Đẳng cấp quý tộc và tăng lữ là giai cấp thống trị, đẳng cấp thứ ba là giai cấp bị trị.

Khi giải thích về nguồn gốc giai cấp, các nhà sử học lãng mạn đã có quan điểm duy tâm khi khẳng định sự chinh phục là yếu tố quyết định sự hình thành giai cấp. Theo họ, người Giéc manh chiến thắng người Ga lô La Mã là nguyên nhân hình thành giai cấp phong kiến, những người đi chinh phục hợp thành quý tộc phong kiến và những kẻ bại trận trở thành đẳng cấp thứ ba.

Điều đáng chú ý là, các nhà sử học lãng mạn luôn tìm cách biện hộ cho sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản. Họ vẫn biết cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống chủ nghĩa phong kiến là tất yếu, đẳng cấp thứ ba có quyền xóa bỏ sự thống trị của quý tộc và tăng lữ, nhưng họ ra sức phủ nhận mâu thuẫn tồn tại trong đẳng cấp thứ ba. Theo họ, đấu tranh giai cấp dù có tính chất tiến bộ, nhưng đã chấm dứt cùng chiến thắng của giai cấp tư sản. Từ đây, giai cấp tư sản là đại biểu cho lợi ích toàn dân tộc.

Các nhà kinh tế học như Ricacđô, Min, Xây, Tôrrenxo v.v… đã trình bày những mối quan hệ kinh tế của các giai cấp.

Phần lớn các “lý thuyết phân tầng” của xã hội học tư sản hiện đại cũng thừa nhận sự tồn tại thực tế của các giai cấp.

Những người bác bỏ sự tồn tại của các giai cấp chỉ chiếm số ít trong các nhà khoa học tư sản.

Như vậy, các nhà triết học phi macxit đã đưa ra rất nhiều luận điểm có giá trị, là tiền đề cho những phát kiến sau này. Các nhà tư tưởng phi macxit có thể thấy được tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội. Họ thừa nhận sự tồn tại, thậm chí cả sự đối lập của các giai cấp trong xã hội (giai cấp chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp phong kiến và nông nô trong xã hội phong kiến, giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội cận và hiện đại). Ngoài các giai cấp còn có các tầng lớp, các nhóm xã hội gắn với hệ thống giai cấp này hay khác. Tuy nhiên, các nhà triết học phi macxit chưa thấy được cơ sở thực sự khoa học để xác định các giai cấp và xu hướng vận động của cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội. Họ đã không đưa ra được những định nghĩa cụ thể về giai cấp và nguồn gốc của nó, cũng như chưa chỉ ra được con đường để thủ tiêu xã hội có giai cấp, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới.

Các Mác đi nghiên cứu về giai cấp từ việc phân tích kết cấu phương thức sản xuất đã có cách tiếp cận khoa học: lấy lý luận về hình thái kinh tế - xã hội làm cơ sở nghiên cứu xã hội. Mác đã đi tìm cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó là kinh tế.Theo C.Mác, sự phân chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất nhiên của sự phát triển lịch sử xã hội. Quan hệ giai cấp chính là biểu hiện về mặt xã hội của những quan hệ sản xuất, trong đó tập đoàn người này có thể bóc lột lao động của tập đoàn người khác. Vì vậy, chỉ có thể hiểu đúng vấn đề giai cấp khi gắn nó với đời sống kinh tế, với nền sản xuất vật chất xã hội.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa khoa học về giai cấp. “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”[48].

Định nghĩa của V.I.Lênin đã chỉ ra các đặc trưng cơ bản của giai cấp, sau đây:

Trước hết, giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.

giai cấp là những tập đoàn người to lớn, là những khối quần chúng đông đảo, có lợi ích cơ bản gắn bó chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, giai cấp chủ nô, giai cấp nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lên; giai cấp địa chủ phong kiến và nông nô trong xã hội phong kiến; giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản. Như vậy, nói đến giai cấp là nói đến tập đoàn người trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định chứ không nói đến những cá nhân riêng lẻ. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh, nếu một cá nhân chỉ đấu tranh vì lợi ích của mình, lợi ích đó không gắn với lợi ích của cả tập đoàn người thì người đó đứng ngoài giai cấp.

Dấu hiệu chủ yếu quy đinh địa vị kinh tế-xã hội của các giai cấp là các mối quan hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản xuất.

giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất xã hội, trên ba phương diện cơ bản: khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất (qua chế độ sở hữu); khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động, trong tổ chức quản lý sản xuất; khác nhau về cách thức và quy mô thu nhập của cải xã hội. Trong đó, sự khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định địa vị giai cấp trong hệ thống sản xuất xã hội.

Chủ nô (trong chế độ chiếm hữu nô lệ); địa chủ phong kiến (trong chế độ phong kiến), tư sản (trong chế độ tư bản chủ nghĩa) là những tập đoàn giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu. Trước hết, do họ sở hữu tư liệu sản xuất xã hội, tức là nắm được phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng nhất để chi phối lao động của các tập đoàn người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất hoặc không có tư liệu sản xuất (nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, nông nô trong chế độ phong kiến, vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị.

Thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.

do các sự khác nhau giữa về địa vị kinh tế của các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định đã dẫn đến tình trạng chiếm đoạt lao động của tập đoàn thống trị trong hệ thống kinh tế - xã hội đối với những tập đoàn khác. Điều đó nói lên rằng, sự đối lập về lợi ích căn bản do sự khác nhau về địa vị kinh tế và tình trạng chiếm đoạt lao động giữa các tập đoàn người sẽ dẫn đến tính đối kháng trong quan hệ giai cấp. Trong lịch sử, các giai cấp bị chiếm đoạt lao động, bị áp bức bóc lột đã tiến hành các cuộc cách mạng để xóa bỏ tính đối kháng và sự áp bức bóc lột ấy. Tuy nhiên, cuộc cách mạng xóa bỏ sự áp bức bóc lột, xóa bỏ giai cấp là cuộc cách mạng không thể theo ý muốn chủ quan hay bằng sức mạnh bạo lực thuần túy mà phải là một cuộc cách mạng kinh tế và mấu chốt của nó là phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất xã hội.

Như vậy, giai cấp không là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống sản xuất nhất định với những điều kiện khác nhau sẽ hình thành nên các giai cấp với những đặc trưng riêng.

Định nghĩa giai cấp của Lênin cho thấy, giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn với những hệ thống sản xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp xét đến cùng là do nguyên nhân kinh tế. Tuy nhiên, không được biến định nghĩa giai cấp thành một phạm trù kinh tế đơn thuần. Chỉ có thể xem xét các giai cấp trong hệ thống những mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp và không ngừng vận động, biến đổi mới có thể nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc sự khác biệt của các giai cấp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý, đạo đức, lối sống…Song cơ sở khoa học để xem xét các mối quan hệ đó, theo V.I.Lênin, không thể có gì khác hơn là phân tích chế độ kinh tế đã sản sinh ra các giai cấp đó và địa vị cụ thể của mỗi giai cấp trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.

Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin mang bản chất cách mạng và khoa học, có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở để nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho giai cấp vô sản cơ sở lý luận khoa học để nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xoá bỏ giai cấp và xây dựng xã hội mới.

 * Nguồn gốc giai cấp

Về nguồn gốc giai cấp, có thể khẳng định, việc phát hiện ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là phát hiện mới trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một trong những phát hiện mới và cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là đã chỉ ra rằng sự tồn tại của giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của nhân loại, cũng không phải là sự tiền định mà chỉ là hiện tượng có tính lịch sử, tức là chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, của lịch sử nhân loại. C. Mác khẳng định: "Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”[49].

Thật vậy, xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại các giai cấp.

-Nguồn gốc trực tiếp hình thành giai cấp:

Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc… Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Sự ra đời giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.

Trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém với công cụ bằng đá, gậy gộc, cung tên…, con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa có khả năng xuất hiện chế độ người bóc lột người, chưa thể có các giai cấp.

Cuối xã hội nguyên thủy, việc sử dụng phổ biến công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu để tồn tại.

Với công cụ sản xuất mới, sản xuất cá thể từng gia đình có hiệu quả hơn sản xuất tập thể nguyên thủy. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân công lao động lớn: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Trao đổi sản phẩm trở thành hoạt động thường xuyên, phổ biến. Quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất mới. Các gia đình có tài sản riêng ngày càng nhiều và trong công xã xuất hiện sự chênh lệch tài sản. Chế độ tư hữu dần thay thế chế độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất.

Từ đó, những người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc đã có thể lợi dụng địa vị của mình để chiếm đoạt tài sản của công xã làm của riêng. Sự phát triển lực lượng sản xuất sang trình độ mới tạo khả năng và tiền đề phân hóa xã hội thành giai cấp. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp.

Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc không bị giết mà được sử dụng làm nô lệ phục vụ cho những người giàu có và có địa vị trong xã hội. Giai cấp chính thức hình thành từ đó.

           Như vậy, chế độ tư hữu là cơ sở quyết định trực tiếp cho sự ra đời giai cấp. Giai cấp đối kháng đầu tiên trong lịch sử là chủ nô và nô lệ, sau đó là địa chủ phong kiến và nông dân, tư sản và vô sản. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo ra tiền đề để thủ tiêu giai cấp.

Như vậy, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp cũng như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của hệ thống giai cấp này hay hệ thống giai cấp khác là nguyên nhân kinh tế chứ không phải nguyên nhân chính trị hay tư tưởng.

-Nguồn gốc sâu xa làm hình thành giai cấp: sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó làm xuất hiện thời gian lao động thặng dư của xã hội, biểu hiện thành sự dư thừa của cải tương đối của xã hội.

Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân hay sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất không phải theo ý muốn chủ quan mà là tuân theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là của xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.

Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có thể diễn ra với những hình thức, mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác động cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản. Đó là: sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu dưới sự tác động của nhân tố bạo lực và sự hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ngoài ra, trong thực tế lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.  

-Khi nào giai cấp mất đi:

Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại một cách tất yếu suốt quá trình lịch sử nhiều nghìn năm trong điều kiện cơ bản sau đây: lực lượng sản xuất đã phát triển tới mức tạo ra được sản phẩm thặng dư, nhưng chưa đạt tới mức có thể bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người. Sự phân chia xã hội thành giai cấp sẽ bị sự phát triển đầy đủ của những lực lượng sản xuất hiện đại xóa bỏ.

C.Mác và Ph.Ăngghen chứng minh chủ nghĩa tư bản phát triển cao sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất hùng mạnh và những điều kiện kinh tế - xã hội khác để xóa bỏ giai cấp.

Khi đó, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nền sản xuất tự động hóa cao cho phép người lao động tách khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, trở thành người điều khiển sản xuất. Sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất làm cho sự phân chia giai cấp mất tính tất yếu. Lực lượng sản xuất phát triển rất cao tuy là điều kiện cơ bản, nhưng không phải là duy nhất để thực hiện xã hội không giai cấp.

Còn có những điều kiện kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là sự phát triển cao và toàn diện của con người. Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội cho xã hội không có giai cấp.

Tuy nhiên, các giai cấp không tự động mất đi, để tiến tới một xã hội công bằng, văn minh, không còn giai cấp, không còn chế độ người bóc lột người, giai cấp công nhân, nhân dân lao động phải tiến hành cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức, tiến tới giành lấy dân chủ, thiết lậ p chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa vào đó mà cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không giai cấp. Đó là cả một thời đại lịch sử lâu dài, phải trải qua nhiều bước trung gian quá độ hết sức phức tạp. Xã hội có giai cấp không tồn tại vĩnh cửu mà chỉ là một giai đoạn tất yếu của lịch sử loài người.

* Kết cấu xã hội - giai cấp

Kết cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết cấu xã hội - giai cấp trước hết do trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội quy định. Trong xã hội có giai cấp, kết cấu xã hội - giai cấp thường rất đa dạng do tính đa dạng của chế độ kinh tế và cơ cấu kinh tế quy định.

Mỗi xã hội có giai cấp, có kết cấu giai cấp riêng, bao gồm:

Hai giai cấp cơ bản gắn liền với phương thức sản xuất đang giữ địa vị thống trị. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.

           Một số giai cấp không cơ bản là tàn dư của phương thức sản xuất cũ, hoặc là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai.

Trong những tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong buổi đầu của xã hội tư bản), có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong kiến).

           + Một số tầng lớp trung gian như trí thức và một số tầng lớp khác là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản.

Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, đó là tầng lớp trí thức. Nhân tố chi phối sự phân hóa của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tùy thuộc vào vị trí lợi ích của họ.

b. Đấu tranh giai cấp

* Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp

- Tính tất yếu

Trong xã hội có giai cấp tất yếu sẽ nảy sinh đấu tranh giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế - xã hội, cho phép họ được hưởng những đặc quyền đặc lợi của họ là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột, đối kháng đó là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Do vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.

- Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.

Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa quần chúng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột với giai cấp thống trị, bóc lột có đặc quyền đặc lợi ở những phạm vi và mức độ khác nhau.

Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau với phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Cả ba hình thức đấu tranh đều rất quan trọng.

Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.

Để đảm bảo cuộc đấu tranh tự giải phóng đi đến thắng lợi cuối cùng, giai cấp công nhân phải có học thuyết cách mạng và khoa học soi đường, phải tổ chức chính đảng của mình, phải trở thành một giai cấp tự giác và có tổ chức. Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra rằng muốn tự giải phóng về mặt kinh tế, công nhân không thể dừng lại ở đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng mà phải tiến lên đấu tranh chính trị để giành lại các quyền tự do dân chủ và cuối cùng giành chính quyền. Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.

Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện được sự bóc lột của nó, các giai cấp bóc lột trong lịch sử (giai cấp chủ nô, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản) tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức - đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì sự thống trị giai cấp. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào nếu chưa giải quyết được vấn để chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết được những vấn đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp.

Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm của nó mà chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới đỉnh cao của sự phát triển đấu tranh giai cấp.

* Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp

- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của các xã hội có giai cấp.

+ C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vật phát triển, đấu tranh giai cấp là thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội có giai cấp. Sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người là hành động lịch sử đầu tiên của con người. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là điều kiện cơ bản để sản xuất phát triển thuận lợi, tạo cơ sở cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những quan hệ sản xuất lỗi thời được giai cấp thống trị bảo vệ. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để giải phóng sức sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển phải thực hiện qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là thời kỳ cách mạng như đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội, do đó “đấu tranh giai cấp” là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.

Lịch sử nhân loại đã chứng minh vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức bóc lột. Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến, các phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức... do giai cấp tư sản lãnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại tư sản.

Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh giai cấp đều dẫn tới sự ra đời của một phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.

Trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.

Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động (qua đấu tranh cho tự do, không cam chịu số phận nô lệ), các giai cấp bị áp bức mới gột rửa được tinh thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người áp bức người sản sinh ra.

Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.

- Trong thời kỳ phát triển bình thường của xã hội có giai cấp, ngay khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với lực lượng sản xuất, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng:

+ Thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt bởi nó kích thích sự áp dụng khoa học vào sản xuất, tăng năng suất lao động thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

+ Đấu tranh giai cấp làm chế độ dân chủ được hoàn thiện hơn.

Dưới chế độ tư bản, sức ép của phong trào công nhân là một trong những động lực mạnh mẽ, thường xuyên trực tiếp thúc đẩy giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kỹ thuật mới nhằm đảm bảo lợi nhuận của họ. Qua đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình, giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, do đó có khả năng thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình.  

c. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản

- Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.

Cuộc đấu tranh do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là phương tiện tất yếu để giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy đây là một quá trình đấu tranh lâu dài và phức tạp. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng này thắng lợi trước hết ở những khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, nơi giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng có những điều kiện khách quan và chủ quan để giành chính quyền.

Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, đấu tranh giai cấp chưa biến mất mà tiếp tục diễn ra gay go, phức tạp trong điều kiện mới.

Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.

Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.

V.I.Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”[50]. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh. Vì vậy khi khẳng định rằng “đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản”, C.Mác cũng chỉ rõ “bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”[51]

- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công nhân đã thay đổi: từ mục tiêu giành chính quyền chuyển sang mục tiêu củng cố chính quyền của nhân dân lao động, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là xây dựng kinh tế, giai cấp tư sản đã bị lật đổ, tiến hành cuộc đấu tranh chống cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản.

Điều kiện đấu tranh, mục tiêu trực tiếp của các giai cấp thay đổi thì hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Cuộc đấu tranh thời kỳ này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng. Giai cấp công nhân phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt nhiều hình thức đấu tranh: đấu tranh bằng bạo lực và hòa bình, bằng chính trị, quân sự và kinh tế, bằng cải tạo các quan hệ cũ đã lỗi thời và xây dựng quan hệ mới đúng quy luật…

Theo V.I.Lênin: Chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng lợi triệt để khi giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, đảm bảo chủ nghĩa xã hội tạo ra được năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu này chưa thực hiện được thì khả năng phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn còn rất lớn.

Cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go, phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của giai cấp công nhân, nông dân và toàn thể nhân dân lao động. Tùy theo những điều kiện lịch sử cụ thể mà cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội lâu dài, gay go phức tạp khác nhau. Ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trọng của các đảng cộng sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản. Hai loại sai lầm nghiêm trọng dễ mắc phải là:

Chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật kinh tế khách quan, trong khi lại tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, nhất là tuyệt đối hóa một trong những hình thức của đấu tranh giai cấp.

Cơ hội hữu khuynh, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.

*Đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

- Đặc điểm đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay:

Một là, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta tiến hành trong điều kiện từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+Đây là đặc điểm cơ bản nhất quy định tính chất quá độ ở nước ta, cho thấy đấu tranh giai cấp ở nước ta khác các nước Liên Xô, Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ là quá độ trực tiếp, đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.

Còn đối với nước ta, bằng quá độ gián tiếp thì đối tượng đấu tranh là nền sản xuất nhỏ và xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Là một nước thuộc địa nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì nhiệm vụ của đấu tranh giai cấp ở nước ta không đơn giản là “cải tạo” cơ cấu xã hội - giai cấp mà còn phải xây dựng lực lượng sản xuất mới, tức phải xây dựng lại từ đầu lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Ở nước ta, đối tượng chính là sản xuất nhỏ, vì thế phải sử dụng chủ nghĩa tư bản mà xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là phải sử dụng các hình thức kinh tế trung gian để tạo tiền đề nảy sinh các nhân tố xã hội chủ nghĩa.

+ Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ, đi qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm tạo những bước phát triển vượt bậc về kinh tế, mà sự tăng trưởng phát triển kinh tế đặc biệt có ý nghĩa đối với nước ta, khi mà nguy cơ tụt hậu về kinh tế đã được xác định là 1 trong 4 nguy cơ lớn đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân

Hai là, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay được tiến hành trong điều kiện đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thống nhất hữu cơ với nhau.

Có lẽ ít nơi nào trên thế giới, đấu tranh giai cấp luôn quyện chặt với đấu tranh dân tộc suốt chiều dài lịch sử như ở Việt Nam. Vì thế, không thể xem xét cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thoát ly khỏi truyền thống dân tộc.

Trận tuyến đấu tranh giai cấp ở nước ta được xác định: một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo với một bên là các tổ chức, phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.

Ba là, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra  trong điều kiện quốc tế diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường diễn biến hòa bình nhằm phủ định chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Hướng tác động của “diễn biến hòa bình” là triệt để lợi dụng quá trình đổi mới có nhiều sơ hở, thiết sót để tác động làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điểm kết thúc của “diễn biến hòa bình” ở lĩnh vực chính trị là thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa, trọng điểm của “diễn biến hòa bình” là Đảng Cộng sản, Nhà nước XHCN Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh không phân trận tuyến, không ồn ào sôi động mà lặng lẽ, thậm chí ngọt ngào. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu phải trả giá đắt vì mất cảnh giác với cuộc chiến tranh này.

Có thể thấy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp, vị trí giai cấp thay đổi dẫn đến quan hệ giữa các giai cấp cũng có sự thay đổi. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể tránh khỏi.

- Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh:

+ Phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức nhưng nổi bật lên là đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa:

+ Một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo.

 Một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.

Các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực phản động quốc tế sử dụng âm mưu “diễn biến hoà bình” hòng thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế độ xã hội.

+ Đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa

Đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyển theo xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Các nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa này được những thế lực chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lợi dụng phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển trên đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực trước hết là lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự xã hội.

Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống nghèo nàn, lạc hậu. Cuộc đấu tranh đó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, diễn ra trên các tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực trật tự xã hội. Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư sản, do đó, sẽ có mâu thuẫn giữa người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản, còn có mâu thuẫn giữa sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản của tư bản tư nhân.

Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản tuy mang tính chất là mâu thuẫn đối kháng giữa lao động và bóc lột, nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay lại là mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Khẳng định điều đó vì: kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, tầng lớp tư sản có vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Họ có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay, lợi ích hợp pháp của nhà tư sản thống nhất với lợi ích của cộng đồng xã hội. Trong quan hệ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tư sản là vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.

- Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta:

Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển,

Thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;

Bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Động lực đấu tranh giai cấp: là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ nặng nề và phức tạp, lâu dài, do vậy, phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan điểm giai cấp. Tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, cường điệu đấu tranh giai cấp, né tránh, mơ hồ đấu tranh giai cấp đều đi ngược lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sẽ gây tổn hại đến thành quả của cách mạng.

Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là quan điểm cách mạng và khoa học. Sự tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, sự cường điệu đấu tranh giai cấp cũng như sự mơ hồ về đấu tranh giai cấp đều trái với quan điểm giai cấp Mác - Lênin, gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 

Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được diễn ra trong điều kiện mới, với nội dung và hình thức mới với tính chất phức tạp, khó khăn và lâu dài. Đối với đội ngũ cán bộ và nhân dân, cần thấu triệt sâu sắc quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc hiện nay. Nhận thức rõ đặc điểm đấu tranh giai cấp ở Việt Nam và các âm mưu chống phá của kẻ thù. Giáo dục nâng cao lập trường giai cấp và tinh thần cảnh giác cách mạng cho đội ngũ cán bộ và nhân dân trong tình hình mới.

2. Dân tộc

a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc

 Con người có bản chất xã hội, do vậy bao giờ cũng chỉ tồn tại và phát triển trong những hình thức cộng đồng người nhất định. Hình thức cộng đồng người là cách thức tổ chức xã hội của con người trong những thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau. Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay, là lịch sử phát triển của các hình thức cộng đồng người từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân tộc.

- Thị tộc

Ngay từ khi mới thoát khỏi giới động vật, con người đã sống thành tập đoàn, đó là những “bầy người nguyên thuỷ”. Khi tiến đến một trình độ cao hơn, những “bầy người” đó phát triển thành thị tộc.

Thị tộc có những đặc điểm cơ bản là các thành viên trong thị tộc đều tiến hành lao động chung, vai trò của các thành viên phụ thuộc vào vị trí của họ trong nền sản xuất nguyên thuỷ. Về tổ chức xã hội, thị tộc bầu ra tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để điều hành công việc chung của thị tộc.

- Bộ lạc

Bộ lạc là cộng đồng bao gồm những thị tộc có quan hệ cùng huyết thống hoặc các thị tộc có quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Bộ lạc là hình thức cộng đồng người phát triển từ thị tộc và do sự liên kết của nhiều thị tộc có cùng huyết thống tạo thành

Bộ lạc có những đặc điểm cơ bản sau, cơ sở kinh tế của bộ lạc là chế độ công hữu về đất đai và công cụ sản xuất. Các thành viên trong bộ lạc đều tiến hành lao động chung, quan hệ giữa các thành viên trong lĩnh vực sản xuất vật chất là bình đẳng. Về tổ chức xã hội, đứng đầu bộ lạc là một hội đồng gồm những tù trưởng của các thị tộc tham gia bộ lạc và có một vị thủ lĩnh tối cao. Mọi vấn đề quan trọng trong bộ lạc đều được bàn bạc và thông qua trong hội đồng này.

- Bộ tộc

Bộ tộc là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp. Các bộ tộc được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc sống trên một lãnh thổ nhất định. Nếu như thị tộc và bộ lạc chỉ bao gồm hầu hết là những người có cùng huyết thống thì bộ tộc là sự liên kết của nhiều bộ lạc không cùng huyết thống.

Bộ tộc hình thành cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ, hoặc trong những xã hội bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, thì bộ tộc hình thành cùng với chế độ phong kiến. Sự hình thành và phát triển của bộ tộc phức tạp hơn thị tộc và bộ lạc. ở những nước khác nhau, những thời đại khác nhau, bộ tộc có những nét đặc thù riêng. Với tính cách là một hình thức cộng đồng người trong lịch sử, bộ tộc có những đặc trưng chủ yếu sau: mỗi bộ tộc có tên gọi riêng; có lãnh thổ riêng mang tính ổn định; có một ngôn ngữ thống nhất. Nhưng vì mối liên hệ cộng đồng chưa phát triển nên tiếng nói chung đó còn chưa thực sự vững chắc. Bên cạnh tiếng nói chung, thổ ngữ của các bộ lạc vẫn được sử dụng rộng rãi. Trong bộ tộc đã xuất hiện những yếu tố chung về tâm lý, văn hoá. Về tổ chức xã hội, việc điều hành công việc xã hội thuộc về nhà nước. Nhà nước là công cụ do giai cấp thống trị tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho giai cấp đó.

Sau bộ tộc, cộng đồng người phát triển thành hình thức dân tộc - hình thức cộng đồng người cao nhất và phổ biến nhất của xã hội loài người hiện nay.

b. Dân tộc - hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay

- Khái niệm dân tộc

 Dân tộc là hình thức cộng đồng người phát triển cao nhất từ trước đến nay. Khái niệm dân tộc được dùng theo hai nghĩa.

Dân tộc (theo nghĩa hẹp) là những cộng đồng tộc người có mối liên hệ tương đối chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ, văn hóa riêng. Theo nghĩa này, dân tộc là những tộc người nhất định, để phân biệt với tộc người khác. Ví dụ, ở Việt Nam có 54 tộc người anh em, gồm: Kinh, Bana, Êđê...

Dân tộc (theo nghĩa rộng – quốc gia, chỉ trình độ tổ chức cộng đồng người cao nhất trong lịch sử, để phân biệt với thị tộc, bộ lạc, bộ tộc) là cộng đồng xã hội – tộc người ổn định bền vững, là sự kết hợp độc đáo các thể cộng đồng về lãnh thổ, ngôn ngữ, kinh tế, văn hoá, tâm lý, tính cách và có nhà nước, pháp luật thống nhất.

Từ quan điểm của của các nhà kinh điển, có thể khái quát: Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với một nhà nước và pháp luật thống nhất.

 Dân tộc có các đặc trưng chủ yếu sau:

Một là,cộng đồng về lãnh thổ. Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng, thống nhất, không bị chia cắt. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải đảo, vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia. Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc.

Hai là, cộng đồng về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong cộng đồng. Các thành viên trong một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau, song, điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thống nhất. Thống nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.

Ba là, cộng đồng về kinh tế. C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chứng minh rằng, tác nhân cơ bản dẫn tới việc chuyển từ hình thức cộng đồng trước dân tộc sang dân tộc là tác nhân kinh tế. Những mối liên hệ kinh tế thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính thống nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong một lãnh thổ lớn. 

Bốn là, cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách. Mỗi dân tộc, có một nền văn hoá độc đáo của mình. Văn hoá của dân tộc hình thành trong quá trình lâu dài của lịch sử, tạo ra sắc thái riêng của từng dân tộc. Văn hoá dân tộc mang sắc thái của các tộc người, song nó vẫn là một nền văn hoá thống nhất không bị chia cắt.

Năm là, cộng đồng về nhà nước và pháp luật thống nhất. Mỗi dân tộc là sự thống nhất của nhà nước và pháp luật thống nhất. Xu hướng chung là nhà nước và pháp luật được hình thành trên cơ sở của cuộc đấu tranh giai cấp, xuất phát nguồn gốc từ kinh tế. Do vậy, khi nhà nước và pháp luật ra đời nó mang tính cưỡng chế chung, tạo ra sự thống nhất mang tính áp đặt với các cộng đồng tộc người trong dân tộc nhất định. Ngoài ra, một số dân tộc phương Đông, nhà nước và pháp luật ra đời sớm do các nguyên nhân khác nhau, song tính chất cưỡng chế chung, thống nhất của nhà nước, về cơ bản không thay đổi.

Các đặc trưng của dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động biện chứng với nhau trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc, trong đó xét cho cùng thì nhân tố kinh tế – xã hội có vai trò quyết định, nhân tố chính trị có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hoá vai trò kinh tế đi đến phủ nhận các nhân tố khác đối với qúa trình hình thành, phát triển dân tộc. Do điều kiện, hoàn cảnh nhất định có thể có nhân tố nào đó mờ nhạt hơn, hoặc nổi trội hơn các nhân tố khác, nhưng nhìn chung các nhân tố đều có vai trò nhất định và quan hệ chặt chẽ với nhau trong qúa trình hình thành và phát triển dân tộc.

* Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu và đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Lịch sử cho thấy, dân tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát triển lên, song đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại.

C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, ở châu Âu dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu gắn liền với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Phương thức thứ nhất, dân tộc hình thành từ nhiều bộ tộc khác nhau trong một quốc gia. Quá trình hình thành dân tộc ở đây vừa là một quá trình thống nhất lãnh thổ, thống nhất thị trường; đồng thời, cũng là một quá trình đồng hoá các bộ tộc khác nhau thành một dân tộc duy nhất, một quốc gia dân tộc độc lập, như ở các nước Đức, Ý, Pháp.v.v... Phương thức thứ hai, do điều kiện chế độ phong kiến chưa bị thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu, dân tộc được hình thành từ một bộ tộc. ở đây không có quá trình đồng hoá các bộ tộc mà chỉ có quá trình thống nhất các lãnh thổ phong kiến thành lập một quốc gia gồm nhiều dân tộc, trong đó mỗi dân tộc hình thành từ một bộ tộc riêng, như trường hợp ở các nước Nga, Áo, Hung .v.v...

 Quá trình hình thành, phát triển dân tộc diễn ra hết sức lâu dài, đa dạng và phức tạp. ở các nước châu Âu, sự hình thành và phát triển của dân tộc trải qua các thời kỳ chính: gắn liền với cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo; gắn liền với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc; và thời kỳ các dân tộc xã hội chủ nghĩa ra đời. Sự hình thành các dân tộc trong lịch sử trên thế giới còn tuỳ điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, khu vực. Sự hình thành các quốc gia, dân tộc ở phương Đông có tính đặc thù riêng. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... dân tộc được hình thành rất sớm, không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam

Ngay từ rất sớm, truyền thống đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống thiên tai và chống ngoại xâm của nhân dân đã góp phần tạo cơ sở cho sự hình thành dân tộc Việt Nam với những nét đặc thù sâu sắc.

Lịch sử dân tộc Việt Nam trước hết là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Thông qua những cuộc chiến bảo vệ giang sơn, bờ cõi đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt Nam đã được tôi luyện, củng cố, tạo cơ sở cho sự gắn kết chặt chẽ giữa các tộc người với nhau, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Bên cạnh đó, để bảo vệ mùa màng, bảo vệ nơi sinh sống, các cộng đồng người Việt phải chung sức chống thiên tai và sự khắc nghiệt của thời tiết. Việc đắp đê trị thủy, bảo vệ mùa màng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau đã củng cố tinh thần đoàn kết gắn bó của các tộc người trong cộng đồng, tạo cơ sở cho sự hình thành dân tộc Việt Nam. Như vậy, dân tộc ở Việt Nam hình thành trước khi xuất hiện giai cấp. Điều này không giống như sự hình thành dân tộc ở các nước phương Tây.

Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng xã hội – tộc người đa dạng, phong phú. Theo Danh mục các dân tộc Việt Nam dựa theo Quyết định số 421, ngày 02 tháng 3 năm 1979 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Việt Nam thì dân tộc Việt Nam có 54 tộc người cùng sinh sống. Trong đó tộc người Việt (Kinh) chiếm khoảng 86,2% dân số. Các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam từ sớm đã có sự gắn bó mật thiết với nhau.

Dân tộc Việt Nam có sự tồn tại đan xen các cộng đồng tộc người, tạo ra sự đa dạng phong phú về văn hóa, tâm lý, lối sống, phong tục tập quán. Tuy nhiên vẫn có sự thống nhất trên cơ sở lãnh thổ, ngôn ngữ, tâm lý tính cách, kinh tế và nhà nước, pháp luật thống nhất.

Ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam là tiếng Việt (Kinh) được hình thành từ sớm và trở thành ngôn ngữ chủ đạo trong toàn bộ dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó còn có sự đan xen các ngôn ngữ của các cộng đồng tộc người, tạo ra sự thống nhất trong đa dạng về ngôn ngữ. 54 tộc người Việt Nam được xếp theo 3 ngữ hệ và 8 nhóm ngôn ngữ: Việt – Mường, Tày - Thái, Mông - Dao, Ka Đai, Tạng Miến, Nam Đảo, Hán.

Quan hệ tộc người ở Việt Nam lịch sử và hiện tại, có sự phát triển, đa dạng và phong phú trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng chung tích cực là các tộc người ngày càng gắn bó và xích lại gần nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xu hướng cố kết cộng đồng dân tộc được phát huy, tính thống nhất hữu cơ giữa các tộc người trong quốc gia dân tộc được củng cố và tăng cường, thìcó lúc, có nơi vẫn xảy ra những hiện tượng tiêu cực, thậm chí xung đột trong quan hệ tộc người.

Đặc biệt, những năm gần đây, giữa các tộc người xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp lợi ích trong phối hợp, chia sẻ, sử dụng các nguồn lực tự nhiên - xã hội. Việc giải quyết vấn đề di cư tự do giữa các vùng miền đã làm phức tạp hơn các mối quan hệ tộc người giữa các cộng đồng tại chỗ với các cộng đồng mới di cư đến, gây nên những vấn nạn như phá rừng, tranh chấp đất đai, gây mất ổn định xã hội, chưa được giải quyết dứt điểm. Đời sống của đồng bào các tộc người thiểu số, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao. Bản sắc văn hóa, ngôn ngữ của các tộc người có nguy cơ bị mai một trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, nhất là trong bối cảnh ngày càng có nhiều các tộc người cư trú đan xen như hiện nay.

Bên cạnh quan hệ giữa các tộc người trong nội bộ dân tộc dân tộc Việt Nam lịch sử và hiện tại cũng có quan hệ ngoại giao với các dân tộc trên thế giới. Trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại từ Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần, Hậu Lê, NguyễnViệt Nam chủ yếu có quan hệ ngoại giao với các triều đình phong kiến Trung Quốc. Đến năm 1945 khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòaquan hệ của Việt Nam với các nước ngày càng được mở rộng. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ở nhiều mức độ khác nhau với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện tại, Việt Nam có quan hệ hợp tác tốt với tất cả nước  thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Qua đó, Việt Nam đã tạo dựng môi trường hòa bình, hợp tác hữu nghị, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

3. Mối quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại

a. Quan hệ giai cấp - dân tộc

 Dân tộc và giai cấp là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác nhau đối với sự phát triển của xã hội. Trong lịch sử nhân loại, giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn còn tồn tại lâu dài. Trong một dân tộc có nhiều giai cấp và ngược lại một giai cấp có thể tồn tại trong nhiều dân tộc.

* Giai cấp quyết định dân tộc.

Sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội là nguyên nhân xét đến cùng quyết định sự hình thành, phát triển của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là động lực mạnh mẽ nhất của quá trình thay thế hình thức cộng đồng bộ tộc bằng hình thức cộng đồng dân tộc. Trong quá trình đó, giai cấp tư sản đã đóng vai trò chính của việc thúc đẩy sự hình thành dân tộc tư sản.

Quan hệ giai cấp quyết định khuynh hướng phát triển và tính chất của dân tộc. Trong một thời đại lịch sử, mỗi dân tộc đều do một giai cấp làm đại diện. Giai cấp đó quy định tính chất dân tộc. Giai cấp thống trị trong xã hội cũng là giai cấp thống trị đối với dân tộc. Những giai cấp đang lên trong lịch sử, đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội cũng là giai cấp đại biểu cho lợi ích chân chính của dân tộc. Giai cấp đó có khả năng nắm ngọn cờ dân tộc để tập hợp đông đảo các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong dân tộc đấu tranh chống giai cấp thống trị phản động, hoặc chống ách áp bức của các dân tộc khác.

Khi giai cấp thống trị đã trở thành lỗi thời, phản động, lợi ích giai cấp của nó mâu thuẫn găy gắt với lợi ích dân tộc, chúng sẵn sàng từ bỏ lợi ích dân tộc để bảo vệ lợi ích giai cấp. Lúc ấy, giai cấp thống trị bóc lột trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển của xã hội và của dân tộc. Yêu cầu tất yếu phải làm cách mạng xã hội lật đổ giai cấp thống trị, phản động để giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ở các nước Châu Âu từ thế kỷ thứ XV, XVI giai cấp tư sản là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất mới (phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa), bởi vậy nó là giai cấp tiến bộ và cách mạng. Lợi ích của giai cấp tư sản lúc đó có sự phù hợp với lợi ích của các giai cấp có lợi ích gắn liền với việc thủ tiêu chế độ phong kiến. Giai cấp tư sản đã trở thành giai cấp lãnh đạo phong trào cách mạng tư sản, thủ tiêu chế độ phong kiến và đưa tới sự hình thành các quốc gia, dân tộc tư sản. Khi giai cấp tư sản trở thành lực lượng thống trị xã hội đã duy trì quan hệ áp bức dân tộc và trở nên đối lập với lợi ích dân tộc. Để tiếp tục tìm kiếm lợi nhuận, giai cấp tư sản đã tiến hành xâm lược các dân tộc khác. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những mâu thuẫn và bất bình đẳng dân tộc sâu sắc; đồng thời, là cội nguồn chủ yếu của áp bức dân tộc. Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp bức dân tộc. Vì vậy, đánh đổ giai cấp tư sản không những chỉ là vì lợi ích giai cấp vô sản và nhân dân lao động mà còn vì lợi ích của dân tộc. Chính vì vậy chủ nghĩa Mác khẳng định, muốn xoá bỏ triệt để ách áp bức dân tộc thì phải xoá bỏ nguồn gốc của nó là chế độ người bóc lột người. Chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề để thực hiện điều đó.

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, trong các nước thuộc địa và phụ thuộc, dân tộc chỉ có thể được giải phóng triệt để khi đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và chỉ khi đó vấn đề dân tộc, cùng vấn đề giai cấp mới được giải quyết một cách triệt để.

* Vấn đề dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giai cấp.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, dân tộc có vai trò quan trọng đối với vấn đề giai cấp.

Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải phóng giai cấp. Thực tiễn lịch sử khẳng định, trong điều kiện chưa có độc lập dân tộc thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc lập dân tộc.

Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. V.I.Lênin đưa ra khẩu hiệu kêu gọi giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại để chống lại chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đánh giá đúng đắn vai trò có ý nghĩa thời đại của cách mạng giải phóng dân tộc, chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong nắm ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ, nhiệm vụ của của giai cấp công nhân các nước tư bản, đế quốc là phải ra sức ủng hộ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Muốn đưa phong trào cách mạng tiến lên, giai cấp công nhân mỗi nước và chính đảng của nó phải tự mình chứng tỏ là người đại biểu chân chính của dân tộc, phải kết hợp chặt chẽ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.

Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc như “đôi cách của một con chim”. Người đã chỉ rõ một chân lý là, ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, sự nghiệp giải phóng giai cấp phải được bắt đầu từ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi vì, một khi dân tộc đã bị kẻ thù xâm lược thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng trở thành nô lệ cho các thế lực thống trị, bóc lột ngoại bang. Vì thế, con đường giải phóng giai cấp ở các nước này tất yếu phải đi từ giải phóng dân tộc và phải gắn lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp. Đối với cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[52]. Người chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là nhân tố bị động, phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc; ngược lại, nếu đảng của giai cấp công nhân có đường lối đúng đắn, biết phát huy nhân tố bên trong và điều kiện quốc tế bên ngoài, nắm vững thời cơ thì cách mạng ở nước thuộc địa có thể thành công trước cách mạng ở chính quốc.

Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đem lại; xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá tăng nhanh làm cho quan hệ giao lưu, hiểu biết giữa các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc hiện nay. Một trong những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay là đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau.

b. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại

Nhân loại là khái niệm dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất. Nhân loại được hình thành trên cơ sở của việc thiết lập những quan hệ giữa các thành viên, những tập đoàn và những cộng đồng trở nên một thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất đó là bản chất người của từng cá thể và của cả cộng đồng, bản chất đó quy định lợi ích chung và quy luật phát triển chung của cả cộng đồng nhân loại.

Quan niệm về tính thống nhất toàn nhân loại của chủ nghĩa duy vật lịch sử không dừng lại ở bản chất tộc loại trừu tượng của con người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra bản chất xã hội của con người và loài người, coi đó là tiêu chí cơ bản để phân biệt loài người với loài vật và bản chất ấy là cơ sở của sự thống nhất cộng đồng nhân loại. Con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là cộng đồng của những thực thể có bản chất xã hội. Cộng đồng đó không ngừng vận động, phát triển theo trình độ phát triển của những năng lực bản chất người.

Giai cấp, dân tộc và nhân loại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Là những cộng đồng và tập đoàn người tồn tại và phát triển không tách rời nhân loại, nên giai cấp, dân tộc và nhân loại luôn có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ biện chứng giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:

Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định tất yếu hình thành các quan hệ giai cấp, dân tộc. Giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất còn phù hợp với quy luật vận động của lịch sử không những là đại biểu cho lợi ích chân chính của dân tộc, mà còn có vai trò to lớn thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh nhân loại. Ngược lại, khi giai cấp thống trị dân tộc trở lên lỗi thời, phản động, thì lợi ích của nó về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích toàn nhân loại.

Tuy nhiên, vấn đề nhân loại không phải bị chi phối một cách thụ động bởi vấn đề dân tộc và giai cấp, mà có vai trò tác động trở lại rất quan trọng. Trước hết, sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điều kiện tất yếu thường xuyên của sự tồn tại dân tộc và giai cấp. Sự phát triển của thế giới mà trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội nói chung đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho con người cải tạo tự nhiên và xã hội, phục vụ cho cuộc sống của mình.

Tác động của nhân loại đến dân tộc và giai cấp còn được thể hiện ở chỗ, sự phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp. Lịch sử đã khẳng định, sự phát triển của nhân loại qua mỗi giai đoạn đã từng bước tác động to lớn đến phong trào giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Sự phát triển đó tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ, cách mạng để lật đổ ách thống trị của các giai cấp thống trị, phản động.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá hiện nay đang làm gay gắt thêm những vấn đề toàn cầu của thời đại. Việc giải quyết tốt các vấn đề toàn cầu của thời đại sẽ tạo ra tiền đề và điều kiện góp phần giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp hiện nay.

 Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học để nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại trong thời đại ngày nay. Đây còn là cơ sở lý luận để đấu tranh, phê phán các quan điểm sai lầm của các học giả tư sản và chủ nghĩa cơ hội về vấn đề này hiện nay.

Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước Việt Nam chính là đóng góp quan trọng vào phong trào cách mạng thế giới và tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Để thực hiện được mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Vận dụng sáng tạo lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi, góp phần tích cực vào thực hiện tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

* Ý nghĩa đối với công tác Công an

Người cán bộ Công an phải nắm chắc hệ thống lý luận, hiểu biết sâu sắc lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp, vai trò là động lực phát triển xã hội của đấu tranh giai cấp.

Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Không chủ quan, bị động, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp.

Tham mưu cho các cấp chính quyền không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện các tổ chức, lực lượng chống phá hệ tư tưởng Mác -Lênin, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trực tiếp đấu tranh với các thế lực thù địch.

Vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, vừa phục vụ tốt hội nhập quốc tế, mở cửa, vừa đảm bảo tốt an ninh quốc gia, không gây trở ngại nhằm góp phần ổn định, phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..

III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI

1.     Nhà nước

Quan điểm về nhà nước trong lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển đã đạt được giá trị khoa học khi giải thích hiện tượng nhà nước.

a. Nguồn gốc của nhà nước

Ph.Ăngghen, trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước cho rằng, nhà nước là một phạm trù lịch sử: “Nhà nước tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả”[53].

Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu, còn nguyên nhân trực tiếp đẫn tới sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, để duy trì trật tự xã hội trong vòng “trật tự” mà ở đó, địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị được đảm bảo.

b. Bản chất của nhà nước

Nhà nước ra đời trong điều kiện xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thông thường, giai cấp thống trị có quyền lực kinh tế trong xã hội là giai cấp lập ra và sử dụng nhà nước như là công cụ để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp mình.

Như vậy, nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.

Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không có nhà nước đứng trên, đứng ngoài giai cấp. Nhà nước dù có tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản chất giai cấp.

c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước

Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước có ba đặc trưng cơ bản. Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định: “… so với tổ chức huyết tộc trước kia (thị tộc hay bộ tộc) thì đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân trong quốc gia theo sự phân chia lãnh thổ…”[54].

Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên như: hệ thống chính quyền từ trung ương tới cơ sở, lực lượng vũ trang, cảnh sát, nhà tù…

Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở là công cụ triển khai thực hiện những chính sách của nhà nước.

Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.

Để duy trì sự thống trị của mình thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước cần phải có nguồn tài chính. Nguồn tài chính được nhà nước huy động chủ yếu là do thu thuế, sau đó là quốc trái thu được do sự cưỡng bức hoặc do sự tự nguyện của công dân.

d. Chức năng cơ bản của nhà nước

Nhà nước ra đời thực hiện nhiều chức năng: chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.

Chức năng thống trị chính trị của giai cấp chịu sự qui định bởi tính giai cấp của nhà nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.

Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của xã hội để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” theo quan điểm của giai cấp thống trị.

Mối quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước.

Chức năng thống trị chính trị của giai cấp thống trị giữ địa vị quyết định, nó chi phối và định hướng chức năng xã hội của nhà nước. Tuy vậy, chức năng xã hội của nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại của nó. Nếu chính quyền nhà nước nào không chú ý tới chức năng xã hội thì sẽ nhanh chóng đi tới sự sụp đổ.

Chức năng đối nội của nhà nước là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua các công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thông, văn hóa, y tế, giáo dục,.. Chức năng đối nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội thông qua lăng kính giai cấp của giai cấp thống trị.

Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhằm giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục,.. của mình.

Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thực thể thống nhất, hỗ trợ và tác động lẫn nhau. Trong đó chức năng đối nội của nhà nước giữ vai trò chủ yếu. Làm tốt chức năng đối nội, nhà nước mới có điều kiện để thực hiện tốt chức năng đối ngoại. Khi chức năng đối ngoại được thực hiện tốt thì chức năng đối nội lại càng có điều kiện phát triển.

e. Các kiểu và hình thức nhà nước

Nhà nước tồn tại rất phong phú và đa dạng. Để đễ nhận biết, cần phải phân loại thành kiểu và hình thức của nhà nước.

Kiểu nhà nước: căn cứ vào tính chất giai cấp của nhà nước có thể phân biệt các kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô quý tộc, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước vô sản. Các kiểu nhà nước trên cơ bản giống nhau ở chỗ đều là công cụ thống trị của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, nhà nước vô sản có sự khác biệt về chất với các kiểu nhà nước khác ở chỗ nó là nhà nước đặc biệt, nhà nước của số đông thống trị số ít.

Hình thức nhà nước: là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương thức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước thực chất là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.

Trong kiểu nhà nước chủ nô quý tộc thời đại chiếm hữu nô lệ từng tồn tại nhiều hình thức nhà nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ nô, nhà nước cộng hòa dân chủ chủ nô. Dù là nhà nước dân chủ hay quân chủ thì về bản chất, đều là công cụ thống trị của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp cư dân khác trong xã hội.

Thời Trung cổ, nhà nước tồn tại dưới hình thức nhà nước phong kiến tập quyền vànhà nước phong kiến phân quyền. Trong hình thức nhà nước phong kiến tập quyền thì quyền lực tập trung trong tay chính quyền trung ương, đứng đầu là vua, hoàng đế. Nhà nước phong kiến phân quyền là hình thức nhà nước mà ở đó, quyền lực bị phân tán bởi nhiều thế lực phong kiến cát cứ ở các địa phương khác nhau. Chính quyền trung ương tồn tại chỉ trên danh nghĩa. Thực tế, vua, hoàng đế chỉ là bù nhìn, không có thực quyền.

Về bản chất, dù tồn tại dười hình thức nào thì nhà nước phong kiến vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc, là công cụ thống trị giai cấp của giai cấp địa chủ, quý tộc.

Trong xã hội tư bản tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: chế độ cộng hòa, chế độ cộng hòa đại nghị, chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa thủ tướng, chế độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi chung,.. Các hình thức nhà nước này dù có khác nhau về hình thức song, về bản chất đều là công cụ thống trị của giai cấp tư sản đối với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.

Kiểu nhà nước vô sản là kiểu nhà nước “đặc biệt”. Trong kiểu nhà nước vô sản, giai cấp vô sản liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ và nhân dân lao động, sau khi tiến hành đấu tranh cách mạng giành chính quyền nhà nước, thiết lập nền chuyên chính của mình.

Nền chuyên chính vô sản (nhà nước vô sản) có chức năng cơ bản là xây dựng một trật tự xã hội mới, thủ tiêu chế độ người áp bức bóc lột người, đập tan sự phản kháng của các thế lực phản động đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt, vẫn ngoan cố chống lại chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo.

Để thực hiện tốt chức năng tổ chức, xây dựng và chức năng trấn áp, phải thực hiện nguyên tắc dân chủ của nền dân chủ vô sản. Phát triển và hoàn thiện nền dân chủ vô sản cũng có nghĩa là phát triển hoàn thiện nhà nước vô sản. Theo quan điểm mácxít, đến một lúc nào đó, khi nhà nước vô sản đã hoàn thành chức năng của nó, khi nền kinh tế và trình độ phát triển xã hội đến giai đoạn cao: “Giai đoạn cộng sản chủ nghĩa”, xã hội tồn tại theo một trật tự mới theo nguyên tắc “tự giác”, thì lúc đó nhà nước “tự tiêu vong”.

Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chấm dứt sự tồn tại của nhà nước thuộc địa nửa phong kiến, mở ra một trang sử mới của sự phát triển nhà nước.

Hiện nay, Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tồn tại theo nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Bản chất của hình thức nhà nước này là: “nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Về bản chất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”[55].

Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị. Để hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản việt Nam chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới thể chế, cơ chế, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo, năng động, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, từng bước thực hiện chính phủ điện tử,.. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

2. Cách mạng xã hội

a. Nguồn gốc của cách mạng xã hội

Cách mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, nó có nguồn gốc sâu xa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi hỏi được giải phóng, phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu đang là trở ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Biểu hiện dưới dạng xã hội của mâu thuẫn này là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị với giai cấp thống trị.

Khi mâu thuẫn đó trở lên gay gắt, quyết liệt đòi hỏi được giải quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội. Khi cách mạng xã hội nổ ra, thì xã hội cũ bị xóa bỏ. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cách mạng xã hội.

b. Bản chất của cách mạng xã hội

Theo học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác thì cách mạng xã hội là sự thay đổi có tính chất căn bản về chất của một hình thái kinh tế - xã hội, là phương thức thay đổi từ một hình thái kinh tế -xã hội này lên một hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn.

Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền, thiết lập một chính quyền mới tiến bộ hơn.

Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội. Nếu cách mạng xã hội được thực hiện là do bước nhy đột biến, làm thay đổi về chất, thay đổi toàn bộ đời sống xã hội thì tiến hóa xã hội là sự thay đổi dần dần, thay đổi từng bộ phận, lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cách mạng xã hội khác với cải cách xã hội. Cải cách xã hội chỉ tạo lên những thay đổi bộ phận, lĩnh vực riêng lẻ của đời sống xã hội. Cải cách xã hội là kết quả đấu tranh của các lực lượng xã hội tiến bộ, nhiều khi cải cách xã hội là bộ phận hợp thành của cách mạng xã hội. Khi các cuộc cải cách xã hội được thực hiện thành công ở những mức độ khác nhau,chúng đều tạo ra sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ.

Cách mạng xã hội khác với đảo chính. Đảo chính là phương thức tiến hành của một nhóm người với mục đích giành chính quyền song không làm thay căn bản chế độ xã hội.

Nói đến bản chất của cách mạng xã hội cũng cần phải nói tới lực lượng cách mạng xã hội.

Lực lượng cách mạng xã hội là những giai cấp, tầng lớp người có lợi ích gắn bó với cách mạng, tham gia vào các phong trào cách mạng đang thực hiện mục đích của cách mạng. Lực lượng của cách mạng xã hội chịu sự qui định của tính chất, điều kiện lịch sử của cách mạng. Cuộc cách mạng tháng Tám ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ và đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Trong lực lượng cách mạng có giai cấp giữ vai trò quyết định thành công của cách mạng, được xem là động lựccủa cách mạng.

Động lực cách mạng là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng, có tính tự giác, tích cực, chủ động, kiên quyết, triệt để cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác tham gia phong trào cách mạng.

Mỗi cuộc cách mạng đều có mục đích là đánh đổ giai cấp nào để giành lấy chính quyền. Để làm được điều đó cần xác định rõ đối tượng của cách mạng xã hội là giai cấp nào?

Đối tượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và những lực lượng đối lập cần phải đánh đổ của cách mạng.

Để cách mạng đi đến thành công, cần thiết phải có giai cấp lãnh đạo cách mạng. Giai cấp lãnh đạo cách mạng xã hội là giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ, đại diện cho xu hướng phát triển của xã hội, cho phương thức sản xuất tiến bộ.

Cách mạng xã hội diễn ra rất phong phú đa dạng. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng cách mạng xã hội.

Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến, là tiền đề diễn ra các cuộc cách mạng xã hội.

Về kinh tế, khi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mâu thuẫn gay gắt với nhau, làm cản trở sự phát triển của phương thức sản xuất, cũng có nghĩa là cản trở sự phát triển của cả hình thái kinh tế - xã hội, của cả xã hội. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng xã hội.

Về điều kiện chính trị - xã hội, khi khủng hoảng kinh tế diễn ra, mâu thuẫn xã hội biểu hiện tập trung ở mâu thuẫn giai cấp, dẫn đến khủng hoảng chính trị, xuất hiệntình thế cách mạng.

Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển đến đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp dẫn tới những đảo lộn sâu sắc trong nền tảng kinh tế - xã hội của nhà nước đương thời.Tình thế cách mạng là một trạng thái đặc biệt của điều kiện khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của các giai cấp, tập đoàn, đảng phái chính trị riêng biệt. Không có tình thế cách mạng thì cách mạng xã hội không thể nổ ra được.

Để cách mạng xã hội nổ ra thì bên cạnh điều kiện khách quan còn có nhân tố chủ quan.

Nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội bao gồm ý chí, niềm tin, trình độ giác ngộ và nhận thức của lực lượng cách mạng vào mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng, là năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ cách mạng, khả năng tập hợp lực lượng cách mạng của giai cấp lãnh đạo cách mạng. Khi có điều kiện khách quan chín muồi, thì nhân tố chủ quan có vai trò quyết định thành bại của cách mạng.

Để cách mạng xã hội nổ ra thành công, giai cấp lãnh đạo phải biết chọn đúng thời cơ cách mạng.

Thời cơ cách mạng là thời điểm đặc biệt khi điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội đã chín muồi, đó là lúc thuận lợi nhất có thể bùng nổ cách mạng, có ý nghĩa quyết định đối với thành công của cách mạng.

c. Phương pháp cách mạng

Mục tiêu của cách mạngxã hội là giành chính quyền bằng cách đập tan chính quyền đã lỗi thời, phản động, cản trở cho sự phát triển của xã hội, thiết lập một trật tự xã hội mới tiến bộ hơn. Để thực hiện được mục tiêu cách mạng cần có các hình thức và phương pháp cách mạng phù hợp.

Phương pháp cách mạng bạo lựclà hình thức tiến hành cách mạng thông qua bạo lưc để giành chính quyền, là hành động của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp lãnh đạo cách mạng vượt qua giới hạn luật pháp của giai cấp thống trị hiện thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.

Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, bạo lực chỉ là công cụ, phương tiện để lực lượng cách mạng giành lấy chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị.

Phương pháp hòa bình là phương pháp đấu tranh không dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền trong điều kiện cho phép. Phương pháp hòa bình là phương pháp đấu tranh nghị trường, thông qua chế độ dân chủ, bằng bầu cử để giành đa số ghế trong nghị viện và trong chính phủ. Phương pháp hòa bình chỉ có thể xảy ra khi có đủ các điều kiện. Một là, giai cấp thống trị không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc còn bộ máy bạo lực, nhưng chúng đã mất hết ý chí chống lại lực lượng cách mạng. Hai là, lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù.

Phương pháp hòa bình rất có lợi, vì ít gây đau khổ, cho nên dù điều kiện để giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình ít khi xảy ra, song cũng cần làm tất cả nếu có điều kiện thuận lợi.

 Hiện nay ở Việt Nam, các thế lực phản động ở trong và ngoài nước chủ trương âm mưu “diễn biến hòa bình”. Trong xã hội, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” không phải là không có ở ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần phải nhận diện và kiên quyết đấu tranh.

d. Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay

Thời đại ngày nay gắn với những đặc điểm nổi bật đó là: cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nền kinh tế tri thức ở các nước phát triển, xu hướng đối thoại thay cho xu hướng đối đầu, những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại phần nào “làm dịu” mâu thuẫn giai cấp, sự xung đột về giai cấp vẫn còn song không gay gắt như thế kỷ XIX - XX, thay vào đó là sự xung đột về kinh tế, sắc tộc, tôn giáo giữa các quốc gia, khu vực. Cùng với đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn đói và bệnh tật ở nhiều nước,..cũng là những nguyên nhân tạo ra sự bất ổn trong thế giới đương đại. Những mâu thuẫn xã hội trong xã hội hiện đại tiềm ẩn khả năng những biến động xã hội theo chiều hướng tiến bộ dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và những hình thức hợp tác mới trên cơ sở các lực lượng xã hội có thể chấp nhận được ở các nước theo các xu hướng chính trị khác nhau hiện nay.

Vì lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chế độ xã hội và chính trị khác nhau đều lựa chọn cách giải quyết những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên thiên nhiên,.. và những bất đồng khác theo phương thức đối thoại, hòa giải.

Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc, không phụ thuộc và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế.

Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã hội dân chủ, tự do, công bằng, văn minh theo cách đi của mình thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ. Và do đó, dù không có các cuộc cách mạng xã hội điển hình như đã từng diễn ra trong lịch sử, thì các quốc gia dân tộc trên thế giới sẽ phát triển dần dần theo hướng thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thay đổi trước hết về lực lượng sản xuất do cách mạng khoa học - công nghệ mang lại, rồi đến thay đổi quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội tức cơ sở hạ tầng, và do đó thay đổi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ xã hội.

IV. Ý THỨC XÃ HỘI

           Hai lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần hay đó chính là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trong triết học Mác – Lênin thì ý thức xã hội gắn liền với tồn tại xã hội, đây là nôi dung cơ bản, đánh dấu sự đối lập căn bản giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm về xã hội. V.I.Lênin đã bắt đầu từ nguyên lý này khi trình bày hệ thống những quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác: “Nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ không triệt để, chưa hoàn bị và phiến diện nên Mác cho là cần phải “làm cho khoa học xã hội phù hợp với cơ sở duy vật, và dựa vào cơ sở đó để cải tạo khoa học ấy”. Nếu nói chung, chủ nghĩa duy vật lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức chứ không phải ngược lại, thì khi áp dụng vào đời sống xã hội của loài người, nó buộc phải lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội”[56]

1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

a. Khái niệm tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Hoạt vật chất là những hoạt động xã hội khách quan, hoạt động lao động, sản xuất, hoạt động quan hệ trong quá trình sản xuất đang diễn ra xung quanh con người, các hoạt động đảm bảo cho xã hội loài người tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất chính là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển xã hội.

b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm 3 yếu tố chính: phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - địa lý và dân số và mật độ dân số.

Phương thức sản xuất là cách thức làm ra của cải vật chất của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định, sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Trong Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[57]

Điều kiện tự nhiên - địalý là điều kiện địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên... được hiểu với nghĩa là môi trường sống của con người. Điều kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất xã hội với tư cách tư liệu sản xuất chi phối hiệu quả, năng xuất lao động xã hội. Vậy môi trường tự nhiên là môi trường sống tất yếu và thường xuyên chi phối và tác động tới sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Dân số và mật độ dân số là số lượng dân cư, mật độ dân số, trình độ dân cư và tốc độ gia tăng dân số. Là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, đến điều kiện sức lao động của PTSX, đến cơ cấu sản xuất. Đây là điều kiện thương xuyên, tất yếu của sự phát triển xã hội, nhưng không giữ vai trò quyết định sự phát triển triển của xã hội. Bản thân vấn đề dân số diễn ra theo quy luật tự nhiên, nhưng nó lại bị điều chỉnh bởi quy luật xã hội, chịu sự tác động tích cực của chế độ xã hội, của phương thức sản xuất.

Ba yếu tố phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên – địa lý, dân cư tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất và quan trọng nhất. Vì đó là cách thức làm ra của cải vật chất cho xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển thì cần phải lao động sản xuất, tạo ra của cải để duy trì sự tồn tại và phát triển hay nói cách khác phương thức sản xuất vật chất là yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài người, còn điều kiện tự nhiên và dân cư là nhân tố tác động tới sự phát triển xã hội.

2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội

a. Khái niệm ý thức xã hội

Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thứ xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội

Ý thức xã hội chỉ các phương diện sinh hoạt tinh thần như: tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng…Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,một bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần nó nảy sinh và xuất phát trên cơ sở tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại, do tồn tại xã hội sinh ra, mang dấu ấn đặc trưng của hinh thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.

b. Kết cấu của ý thức xã hội

Khi nhấn mạnh tính chất xã hội của ý thức, chủ nghĩa duy vật lịch sử không phủ nhận những đặc điểm của ý thức cá nhân, thừa nhận sự tồn tại ý thức cá nhân trong xã hội. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân có quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau cùng phản ánh tồn tại xã hội, song không đồng nhất với nhau.

Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng biệt, cụ thể, phản ánh những điều kiện vật chất những đặc điểm trong đời sống riêng của những con người cụ thể.

Ý thức của cá nhân chỉ thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau. Ý thức xã hội được hình thành trên cơ sở ý thức cá nhân nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức cá nhân và càng không phải là ý thức cá nhân.

- Tùy thuộc vào góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.

Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày

 Là toàn bộ những tri thức, những quan niệm của con người trong một cộng đồng nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống, khái quát thành lý luận.

Ý thức thông thường bao gồm như: tâm lý xã hội, tri thức kinh nghiệm đời thường. Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động trực tiếp cuộc sống hàng ngày nhưng trình độ phản ánh thấp, là sự phản ánh trực tiếp sinh động, phong phú và toàn vẹn của quan niệm sống. Ý thức xã hội thông thường là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung khoa học lý luận của ý thức xã hội.

Ý thức lý luận

Là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội

Là toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí, phong tục tập quán... của những người, cộng đồng người nhất định, phản ánh trực tiếp và tự phát hoàn cảnh sống của họ.

Tâm lý xã hội là ý thức thông thường, phản ánh một cách trực tiếp có tính chất tự phát những điều kiện sống hàng ngày của con người, cho nên nó chỉ ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội mà không có khả năng vạch ra các mối quan hệ bản chất mang tính vật chất của con người, những nguyên nhân sản sinh ra quan hệ đó.

Tâm lý xã hội mang tính chất kinh nghiệm chưa được thể hiện về mặt lý luận, thường có sự đan xen giữa trí tuệ và tình cảm. Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò của tâm lý xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội, nó là nhân tố ghóp phần điều chỉnh hành vi hàng ngày của con người.

Hệ tư tưởng xã hội là giai đoạn phát triển cao của ý thức xã hội. Là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo... là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, về tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Song hệ tư tưởng có thể là hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan của các mối quan hệ vật chất của xã hội và những quy luật xã hội có tác dụng hướng dẫn hoạt động thực tiễn của quần chúng, phù hợp với lợi ích của quần chúng nhân dân và yêu cầu của lịch sử thì hệ tư tưởng của giai cấp đó có khả năng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Hệ tư tưởng không khoa học phản ánh các mối quan hệ vật chất xã hội nhưng dưới một hình thức sai lầm, hoặc xuyên tạc.

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, chúng đều chung một nguồn gốc, cùng phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi, hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, truyền bá, tiếp thu của con người đối với hệ tư tưởng nhất định, là điều kiện để hệ tư tưởng thâm nhập vào đời sống xã hội. Hệ tư tưởng lý luận gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, thúc đẩy xã hội phát triển. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.

- Các hình thái ý thức xã hội

Ý thức xã hội bao gồm nhiều hình thái ý thức khác nhau như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức lý luận (hay ý thức khoa học), ý thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ thuật), ý thức tôn giáo. Sự phong phú của các hình thái ý thức xã hội phản ánh sự phong phú của đời sống xã hội.

* Ý thức chính trị

Hình thái ý thức chính trị phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia... Khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước thì ý thức chính trị được thể hiện trực tiếp và rõ nhất lợi ích giai cấp.

 Ý thức chính tr thể hiện qua cương lĩnh chính trị, trong đường lối và các chính sách của đảng chính trị, pháp luật của nhà nước, đồng thời cũng là công cụ thống trị xã hội của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các mặt của đời sống xã hội; ngược lại, hệ tư tưởng chính trị lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển đó.

Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng và khoa học đang dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

* Ý thức pháp quyền

Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức chính trị, ra đời trong xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó cũng mang tính giai cấp. Do pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị thể hiện thành luật lệ cho nên trong xã hội có giai cấp đối kháng thì thái độ và quan điểm của các giai cấp khác nhau đối với pháp luật cũng khác nhau.

Ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.

* Ý thức đạo đức

Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.Sự phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển của xã hội. Nó phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người.

Trong các xã hội có giai cấp, những nội dung chủ yếu của đạo đức mang tính giai cấp.Giai cấp nào trong xã hội đang đi lên thì đại diện cho xu hướng đạo đức tiến bộ trong xã hội. Ngược lại, giai cấp đang đi xuống, lụi tàn hoặc phản động đại diện cho đạo đức suy thoái.

Hiện nay, trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn cầu hóa, làm cho sự tác động và ảnh hưởng không nhỏ của nhiều loại đạo đức khác nhau trong xã hội lên con người. Bên cạnh việc kế thừa và duy trì, phát huy các giá trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống của dân tộc, đồng thời phê phán lên án những yếu tố tiêu cực, biểu hiện suy thoái các giá trị đạo đức đó là thói ích kỷ, tính thực dụng, lòng tham lam, lợi ích các nhân, không trung thực, thiếu lý tưởng.

* Ý thức nghệ thuật hay ý thứcthẩm mỹ.

Ý thức nghệ thuật, hay ý thức thẩm mỹ là hình thức phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt nhưng mang tính điển hình.

Thông qua nghệ thuật nó phản ánh hiện thực xã hội nhưng không phải một cách trực tiếp, C.Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất định của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội”[58].

Trong xã hội có phân chia giai cấp thì nghệ thuật mang tính giai cấp và chịu sự chi phối của các quan điểm chính trị, của các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, cũng như hình thái ý thức đạo đức, nghệ thuật và ý thức thẩm mỹ vẫn có những yếu tố mang tính toàn nhân loại, do vậy mà nhiều nền nghệ thuật, nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở các giai đoạn lịch sử khác nhau,trở thành những giá trị văn hóa chung tiêu biểu, trường tồn và vô giá của nhân loại. Nghệ thuật tiến bộ đồng thời vừa phục vụ cho dân tộc mình, vừa phục vụ cho cả nhân loại; vừa phục vụ cho thế hệ hiện tại lẫn cho cả các thế hệ tương lai.

* Ý thức tôn giáo

Theo các nhà triết học Mác tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện thế giới quan của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các quan hệ xã hội vào đầu óc con người. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”[59].

Tiếp theo C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhấn mạnh nguồn gốc xã hội của tôn giáo: “Trong các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, những nguồn gốc ấy của tôn giáo chủ yếu là những nguồn gốc xã hội… “Sự sợ hãi đã tạo ra thần linh”. Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, - mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nóđó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại…[60].

Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền bù - hư ảo. Chính vì vậy nhiều khi mang tính chất tiêu cực, cản trở sự nhận thức đúng đắn của con người về thế giới, về xã hội, về bản thân mình để rồi luôn luôn bị các giai cấp thống trị lợi dụng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, muốn xóa bỏ tôn giáo thì phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội của nó, đồng thời phải nâng cao năng lực nhận thức, trình độ học vấn của con người.

* Ý thức khoa học

Ý thức khoa học là sự nhận thức cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện tượng của hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội.

Ý thức khoa học có nhiệm vụ cao cả là hướng con người vào việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống nhiều mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loại, vai trò của khoa học ngày một tăng lên, đặc biệt là trong giai đọan hiện nay khi tri thức khoa học, cả tri thức về tự nhiên lẫn tri thức về xã hội và về con người, đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khi nhân loại bước vào thời đại phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và trí tuệ nhân tạo, là cơ sở để giải quyết các vấn đề toàn cầu của thời đại.

* Ý thức triết học

Triết học nghiên cứu sự vận động, biến đổi,phát triển của thế giới một cách tổng thể, nhất là triết học Mác - Lênin, cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và của chính bản thân triết học. Vì vậy, khi đánh giá mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định rằng, “xét từ góc độ của tinh thần chúng ta có thể gọi triết học chính là cái cần thiết nhất”[61].

Triết học với thế giới quan và nhận thức khoa học là hạt nhân tri thức giúp con người tìm hiểu thế giới xung quanh. Chẳng hạn, thế giới này là gì? điểm khởi đầu và kết thúc là gì? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó? v.v.. Như vậy, Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy trong cuộc sống của xã hội và để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.

c. Tính giai cấp của ý thức xã hội      

Trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, sự khác nhau về điều kiện vật chất, lợi ích và địa vị xã hội khác nhau, phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Giai cấp nào chi phối những tự liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”[62]

Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác. Về mặt hệ tư tưởng tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có quan điểm tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.

Ý thức cá nhân trong xã hội có giai cấp, về bản chất, là biểu hiện các mức độ khác nhau của ý thức giai cấp, do địa vị và những điều kiện sinh hoạt vật chất chung của giai cấp quyết định. Ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc, những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách... của dân tộc, phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân tộc.

3. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thì tồn tại quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng vận động, sự biến đổi và sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện đời sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,... tất yếu sẽ biến đổi theo.

Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, nhưng nếu xét đến cùng thì các mối quan hệ kinh tế bao giờ cũng được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.

b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Quan điểm duy vật lịch sử về xã hội không chỉ khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội mà còn làm sáng tỏ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được phân tích trên các phương diện chính sau dây:

- Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Lịch sử xã hội đã cho thấy, trong nhiều trường hợp khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất đi rất lâu, song ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn còn tồn tại, đặc biệt trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong tư tưởng, truyền thống tập quán..). V.I.Lênin cho rằng: sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm nhất”[63]

Nguyên nhân làm cho ý thức xã hội lạc hậu: 

Một là, ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra nhanh hơn, ý thức xã hội không phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội, đặc biệt là những tư tưởng tôn giáo, những quan niệm chuẩn mực đạo đức, những tập tục..

Ba là, do ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ cố tình duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.

- Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:

Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận trong điều kiện nhất định ý thức xã hội, tư tưởng con người có thể vượt trước tồn tại xã hội. Đó là những tư tưởng khoa học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt trước thời đại rất xa. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận nhất là các dự báo khoa học, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, khả năng phản ánh vượt trước của ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội, có nguồn từ tồn tại xã hội.

Trong thời đại ngày nay, CN Mác-Lênin với hệ thống lý luận khoa học vẫn là thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa

Trong lịch sử phát triển ý thức xã hội của một xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội trước đó. Kế thừa thể hiện tính tất yếu khách quan, tính tiến lên trong sự phát triển.

Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Giai cấp lỗi thời thì tiếp thu khôi phục những tư tưởng phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước.

Quan điểm trên của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mácxít. Người viết: “Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”[64].

Nắm vững quan điểm trên có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.

- Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

Các loại hình thái ý thức xã hội phản ánh những mặt khác nhau, mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một mặt, một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội. Trong quá trình phản ánh hiện thực, các hình thái ý thức xã hội không thể thay thế cho nhau nhưng ảnh hưởng, xâm nhập vào nhau và đều tác động trở lại tồn tại xã hội..

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác tạo nên sự phát triển không đồng nhất với tồn tại xã hội.

Vì thế, khi xem xét một hình thái ý thức xã hội nào đó chúng ta không chỉ chú ý đến các điều kiện kinh tế - xã hội mà còn phải chú ý đến sự tác động của hình thái ý thức xã hội khác.

- Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.

Theo Ph.Ăngghen: "Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v… đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”[65].

Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là một biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Sự tác động đó có thể theo hai khuynh hướng đối lập nhau:

Ý thức xã hội tích cực phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của xã hội, tư tưởng khoa học và tiến bộ góp phần thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.

Ngược lại, nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản động sẽ cản trở sự phát triển tồn tại xã hội.

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào:

Những điều kiện lịch sử cụ thể; Tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; Vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; Mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; Mức độ triển khai thực hiện tư tưởng đó trong quần chúng v.v…

Do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự nghiệp phát triển xã hội.

Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội nói chung; nó bác bỏ quan điểm siêu hình máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít về “tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội” là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử; là một trong những cơ sở phương pháp luận cơ bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Ý nghĩa phương pháp luận:

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó,

Mặt khác, cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng.

Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ; đồng thời cũng thấy rằng không chỉ biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những sự tác động của đời sống tinh thần của xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

- Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Thứ nhất, phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

Thứ hai, tránh sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

           V. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI

Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học, là đối tượng của nhiều trường phái triết học khác nhau từ cổ đại đến hiện đại. Triết học Mác - Lênin kế thừa những thành tựu của khoa học, những tư tưởng triết học đồng thời cũng đưa ra những nhận định khoa học về vấn đề con người. Tại luận cương thứ 11 trong “Luận cương về Phoiơbắc”, C.Mác viết: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”, về thực chất, chủ nghĩa Mác - Lênin chính là học thuyết “cải tạo thế giới” để “giải phóng” con người, hướng tới mục đích vì con người – chủ thể của lịch sử, xã hội, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của hệ thống lý luận có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới.

1. Khái niệm con người và bản chất con người

a. Khái niệm con người 

Có thể khẳng định, lịch sử khoa học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử nghiên cứu về con người. Tuy nhiên, mỗi lĩnh vực của khoa học tiếp cận vấn đề con người theo một cách riêng, phù hợp với đối tượng đặc điểm của mình.

Các trường phái triết học phương Đông và phương Tây từ xưa đến nay đều tìm luận giải vấn đề con người và bản chất con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh.

Triết học Mác - Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.

Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.

    Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại của con người chính là giới tự nhiên. “Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người,… đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”[66]. Về phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.

    Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động. Chính lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người. Nhờ có lao động, con người cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.

    Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội.

    b. Bản chất con người

    Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”[67].

    Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội  đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội …) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng có ý  nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

    Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác biệt. Bản chất một con người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của con người đó. Còn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội... Trong diễn biến đầy mâu thuẫn đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.

    Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động xã hội, con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là thông qua hoạt động thực tiễn con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình.

    Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử -xã hội, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.

    2. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người

    a. Hiện tượng tha hóa con người

    Triết học Mác - Lênin cho rằng hiện tượng tha hóa của con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân chia giai cấp. Tha hóa là quá trình xã hội trong đó hoạt động của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc lập thù địch và thống trị lại con người.

    Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng tha hoá con người được đẩy lên cao nhất trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản, một số ít trở thành tư sản, chiếm hữu toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì vậy những người vô sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để các nhà tư sản bóc lột mình và sự tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là nội dung chính yếu, là nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa của con người.

    Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó, sự tha hóa của lao động còn được tạo nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội: Sự tha hóa của nền chính trị vì thiểu số ích kỷ, sự tha hóa của các tư tưởng của tầng lớp thống trị, sự tha hóa của các thiết chế xã hội khác. Chính vì vậy, khắc phục sự tha hóa là một quá trình lâu dài không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Triết học Mác - Lênin chính là lí luận triết học về khắc phục sự tha hóa của con người, trước hết là lí luận giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.

    b. Vấn đề giải phóng con người

    Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người. Mục đích cao cả mà C.Mác và Ph. Ăngghen ngày từ đầu hướng đến khi xây dựng học thuyết của mình chính là giải phóng con người. Tiền đề nghiên cứu của hai ông là xuất phát từ con người hiện thực. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, việc giải phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Việc giải phóng con người được quan niệm một cách toàn diện, đầy đủ, ở tất cả các nội dung và phương diện của con người, cộng đồng, xã hội và nhân loại với tính cách là các chủ thể ở các cấp độ khác nhau. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội dung và các phương diện: con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc

    Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định khắc phục sự tha hóa trong phân công lao động xã hội và sự phát triển của chế độ tư hữu sẽ là quá trình giải phóng con người sẽ thành hiện thực. Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với giai cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Do vậy, tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người.

    Ngày nay, nghiên cứu vấn đề giải phóng con người, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp tục là cơ sở, tiền đề mang tính khoa học và cách mạng, là những chỉ dẫn soi đường cho phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Thực chất của triết học Mác - Lênin là học thuyết giải phóng con người, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội loài người.

3. Quan hệ cá nhân và xã hội; vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử

a. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội

    Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Khái niệm cá nhân cũng được phân biệt với khái niệm con người vì con người, xét cả về thực thể sinh học lẫn thực thể xã hội, vừa mang bản chất loài lẫn tính đặc thù cá thể. Nó vừa là một vũ trụ thu nhỏ, riêng biệt, độc đáo, lại vừa mang đặc điểm chung, phổ biến của loài.

    Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. Yếu tố xã hội là đặc trưng cơ bản để hình thành cá nhân.

    Cá nhân và xã hội không tách rời nhau. Cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện các chức năng riêng biệt và chức năng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Quan hệ cá nhân – xã hội là tất yếu, là tiền đề và điều kiện tồn tại và phát triển của cả cá nhân lẫn xã hội. Đương nhiên, quan hệ ấy phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào trình độ phát triển xã hội và của từng cá nhân, đặc biệt là phụ thuộc vào bản chất của xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội là khác nhau trong xã hội có phân chia giai cấp và xã hội không phân chia giai cấp. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau.

    Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với các nhân. Bởi vì, các tổ chức xã hội được tạo nên nhằm giải quyết quan hệ lợi ích cho mỗi cá nhân khi tác động đến các lĩnh vực khác nhau. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất kể vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lại tốt đẹp.

    b. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử

    Quá trình vận động và phát triển của lịch sử loài người diễn ra thông qua hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Căn cứ vào mỗi giai đoạn lịch sử nhất định mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.

    Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, quần chúng nhân dân là thuật ngữ chỉ tập hợp đông đảo những con người hoạt động trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm nhiều thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp đang hoạt động trong một xã hội xác định. Đó có thể là toàn bộ quần chúng nhân dân của một quốc gia, một khu vực lãnh thổ xác định. Họ có chung lợi ích cơ bản liên hiệp với nhau, chịu sự lãnh đạo của một tổ chức, một đảng phái, cá nhân xác định dể thực hiện những mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa hay xã hội xác định của một thời kỳ lịch sử nhất định. Nội hàm của khái niệm quần chúng nhân dân bao gồm: Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần là lực lượng căn bản, chủ chốt; Toàn thể dân cư đang chống lại những kẻ áp bức, bóc lột thống trị và đối kháng với nhân dân; Những người đang có các hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần vào sự biến đổi xã hội. Với nội dung đó quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể của các quốc gia, khu vực.

    * Vai trò của quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung:

    Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.

     Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

    Thứ ba, quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.

     Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên. Để trở thành lãnh tụ, bên cạnh việc là một cá nhân kiệt xuất thì cần phải gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân. Bất cứ một thời điểm lịch sử nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Lênin viết: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được chính quyền thống trị, nếu nó không được đào tạo trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[68].

    * Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ:

    Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là biện chứng, vừa thống nhất vừa khác biệt. Tính biệt chứng được biểu hiện như sau:

    Một là, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ.

    Hai là, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định.

    Ba là, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

    Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Lãnh tụ có vai trò quan trọng, nhưng không thể tuyệt đối hóa vai trò của họ dẫn đến tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ, coi nhẹ quần chúng nhân dân, hạn chế việc phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, phải chống lại tệ sùng bái cá nhân. Ngược lại, việc tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân, xem nhẹ vai trò của các cá nhân và lãnh tụ sẽ dẫn đến hạn chế, xem thường các sáng kiến cá nhân, những sáng tạo của quần chúng nhân dân, không phát huy được sức mạnh sáng tạo của họ. Quần chúng nhân dân luôn là người thầy vĩ đại của các cá nhân, lãnh tụ.

     4. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam

    Con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục đích cao nhất của triết học Mác. Tư tưởng nhân văn, nhân đạo đó đã trở thành ánh sáng soi đường cho hành động thực tiễn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Ngày nay, đối với nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, cùng với quá trình đổi mới toàn diện và đồng bộ, do vậy việc xây dựng con người Việt Nam hiện đại là yêu cầu cần thiết và cấp bách.

     Kế thừa những thành tựu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[69]. Tư tưởng xem con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, của sự phát triển xã hội là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

    Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề con người và phát triển con người. Người khẳng định: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Điều đó có nghĩa rằng theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải xây dựng một chế độ xã hội mới. “Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi ách áp bức bóc lột, được sống sung sướng, tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản”[70]. “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[71]. Đây chính là thực chất của tư tưởng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, được Hồ Chí Minh phát triển từ lý luận về giải phóng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào thực tiễn Việt Nam.

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại. Tư tưởng đó đã và đang là “kim chỉ nam”, là nền tảng lý luận cho việc hoạch định các chủ trương chính sách về con người và phát triển con người, cho việc điều hành và quản lý đời sống xã hội. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là nội dung cốt lõi, là tư tưởng căn bản trong chiến lược phát triển con người của nước ta hiện nay. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đã được Liên Hợp Quốc chính thức vận dụng ở quy mô toàn cầu.

    Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người luôn luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong quá trình xây dựng và phát triển con người trong thời kỳ đổi mới vừa qua, thể hiện rõ và nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng.Một mặt, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu tranh không khoan nhượng chống thoái hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, chống lại những thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con người Việt Nam đang cản trở sự phát triển của chính con người và xã hội. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.

    Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, tình nghĩa; có tinh thần quốc tế chân chính”[72]. Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) xác định mục tiêu cụ thể trong xây dựng văn hóa, con người Việt Nam là: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”[73]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đề ra định hướng: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật... Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”[74]. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng con người Việt Nam cũng chính là việc xây dựng nguồn nhân lực “đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[75].

   Qua các văn kiện, các chiến lược, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước thời kỳ đổi mới có thể tóm lược tư tưởng về xây dựng con người Việt Nam ở một số điểm chính sau: Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển và cũng là chủ thể của quá trình phát triển. Vì vậy, xây dựng con người là một nội dung quan trọng của sự nghiệp cách mạng; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống, bồi đắp củng cố những giá trị mới, khắc phục những hạn chế của con người việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Xây dựng con người Việt Nam là một quá trình gắn bó chặt chẽ với các quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ môi trường, thực hiện an sinh xã hội...

   - Đối với lực lượng Công an nhân dân:

    Hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Công an nhân dân đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, mưu trí, dũng cảm, lập nên nhiều chiến công to lớn; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực sự trở thành lực lượng vũ trang trọng yếu, công cụ sắc bén, tin cậy của Đảng và Nhà nước. Một trong những yếu tố cơ bản, quyết định sự lớn mạnh, trưởng thành của Công an nhân dân chính là sự kiên định, vững vàng về bản lĩnh chính trị trước mọi biến cố của thời cuộc. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân được tạo thành bởi sự giác ngộ chính trị cao, nhận thức sâu sắc về nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; năng lực tư duy chính trị sắc sảo, nhạy bén, khả năng nắm bắt nhanh chóng bản chất của sự vật, hiện tượng, có năng lực phân biệt được đúng - sai, phải - trái để có thái độ ứng xử và phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp. Bản lĩnh chính trị còn được tạo thành bởi tình cảm trong sáng, niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

    Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ luôn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng trước sự tấn công, mua chuộc của tội phạm và những tác động tiêu cực của môi trường xã hội. Có thể khẳng định, trong mọi hoàn cảnh lực lượng CAND luôn thấm nhuần lời dạy của Bác: "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục".

    Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng đối với mỗi cán bộ chiến sĩ CAND, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

    Một là, tăng cường đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng chú trọng tính hiệu quả, khắc phục bệnh hình thức, tránh giáo điều, gắn với những vấn đề mới của thời đại ngày nay và thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa...

    Hai là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức về mọi mặt và năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là những kiến thức về pháp luật, công nghệ thông tin, ngoại ngữ và kiến thức chung phổ quát nhất của quá trình hội nhập quốc tế.

    Ba là, nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của tổ chức đảng, cấp ủy, lãnh đạo Công an các cấp trong việc giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ; đồng thời, chú trọng chăm lo xây dựng, củng cố cơ quan, cán bộ làm công tác chính trị tư tưởng, công tác xây dựng lực lượng vững mạnh.

    Bốn là, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tích cực, tự giác rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện về mọi mặt, đặc biệt là tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức; học tập, nâng cao trình độ lý luận và kiến thức chuyên môn; nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, bảo đảm luôn vững vàng, kiên định, sáng tạo và đạt hiệu quả cao trong công tác.

    Năm là, đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phòng, chống "diễn biến hòa bình", "phi chính trị hóa" công an nhân dân nhằm giữ vững trận địa tư tưởng, ngăn chặn, loại trừ những yếu tố tác động làm lung lay tư tưởng và bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an.

VI. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ TRONG CÔNG TÁC CÔNG AN

1. Lực lượng Công an nhân dân trong việc bảo vệ các giá trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác là học thuyết “vĩ đại nhất” trong triết học lịch sử - nó mang tính khoa học, cách mạng cho mọi thời đại, vạch ra con đường khách quan và sự hiện diện tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản tương lai. Run sợ trước sự phát triển tất yếu của lịch sử, của lý luận về sự thay thế nhau của các Hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử do Mác và Ăngghen vạch ra. Các học giả tư sản, kẻ thù lý luận đang tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng, xuyên tạc, bóp méo hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng ta. Vì vậy, người cán bộ công an cần phải có trình độ nhận thức và bản lĩnh để đấu tranh đập tan các luận điệu đó.

- Người cán bộ công an cần phải nắm chắc hệ thống lý luận, hiểu sâu sắc lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, con đường phát triển chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn, bảo vệ nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cụ thể là:

+ Nắm vững và hiểu bản chất cách mạng, khoa học của sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. C. Mác cho rằng: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.

+ Việt Nam lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là đúng đắn, hợp quy luật khách quan.

- Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.

+ Do ý thức hệ của giai cấp thống trị, bóc lột có quan điểm đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp.

+ Nhào nặn vô căn cứ các học thuyết, trào lưu triết học để biện hộ cho sự tồn tại của giai cấp bóc lột, tuyên truyền, bác bỏ chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn như một số luận điểm phản động như: Các thế lực thù địch cho học thuyết về lịch sử của chủ nghĩa Mác là một phiên bản thế tục của thuyết quyết định luận.

Nói như vậy là sai, phản khoa học vì “quyết định luận” của chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: “ý chí” siêu thực, siêu nhiên nào đó quyết định mọi sự tồn tại, còn chủ nghĩa Mác cho rằng cái quyết định sự vận động của xã hội là từ sản xuất vật chất, từ điều kiện phát triển kinh tế sâu xa là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ, cách mạng với quan hệ sản xuất lạc hậu trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

Họ cho chủ nghĩa Mác là giấc mơ về xã hội không tưởng, nó đặt niềm tin vào một xã hội hoàn hảo không có khổ cực đau buồn, không bạo lực và không mâu thuẫn,...đó là cách nhìn nhận ngây thơ, ấu trĩ vào bản chất của con người.

Đó là luận điệu xuyên tạc, phản khoa học. Mục tiêu của chủ nghĩa Mác là xóa bỏ mọi sự bất công, bóc lột trong xã hội và như vậy phải xóa bỏ giai cấp bóc lột tiến tới xây dựng một xã hội không có giai cấp. Vậy không phải là một giấc mơ mà là một hiện thực khi giai cấp vô sản viết lên lá cờ của mình “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Những lý luận trên của các học giả tư sản chỉ biện hộ cho sự bóc lột tối đa của bọn tư bản tài phiệt mà thôi

- Lực lượng Công an nhân dân cần thực hiện tốt các chức năng cơ bản:

+ Tham mưu cho các cấp chính quyền không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác phát hiện các tổ chức, lực lượng chống phá hệ tư tưởng Mác - Lênin; chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

+ Trực tiếp đấu tranh với các thế lực thù địch bằng các hình thức: Trực tiếp tiếp cận đối tượng để đấu tranh; bố trí các lực lượng phản bác những tư tưởng sai trái; dùng sức mạnh của quần chúng nhân dân...

+ Tăng cường công tác bảo vệ rà soát, thanh lọc nội bộ, vô hiệu hóa ảnh hưởng của các tổ chức, cá nhân có tư tưởng sai trái.

+ Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; xây dựng lòng tin trong cán bộ, chiến sĩ về sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, của hệ tư tưởng Mác - Lênin để họ hết lòng bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta.

2. Lực lượng Công an nhân dân góp phần xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay

Vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về ý thức xã hội, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm việc xã hội chủ nghĩa được”(), Đảng ta đã xác định rõ nội dung cơ bản mang tính đặc trưng của ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định những vấn đề cơ bản nhằm xây dựng, phát triển, đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay với những nội dung sau đây: xác định văn hóa giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đó là: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Xác định nền văn hóa mới là mục tiêu của xây dựng và phát triển kinh tế vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Xác định giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu “phát triển giáo dục, đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững”

Về phương thức xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Đảng ta cũng xác định thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Về nguyên tắc xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ quá trình xây dựng ý thức xã hội mới phải gắn với xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới; phải kết hợp giữa “xây” và “chống”; phải đảm bảo tính kế thừa; phải coi xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Lực lượng Công an nhân dân do Đảng ta xây dựng, giáo dục và rèn luyện, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Do vậy, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho trong đó có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, sai trái, phản động còn tồn tại trong xã hội đỏi hỏi mọi mặt hoạt động của công tác Công an cần dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.

Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng, lực lượng Công an nhân dân luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề xây dựng ý thức mới trong xã hội hiện nay ở nước ta, đồng thời phát huy chức năng, nhiệm vụ của Ngành Công an trong việc góp phần xây dựng thành công ý thức xã hội mới của xã hội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, lực lượng Công an nhân dân cần làm tốt một số mặt công tác chủ yếu sau đây:

Trước hết, lực lượng Công an nhân dân cần thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu cho các cấp ủy Đảng và chính quyền, đề xuất các chủ trương, chính sách, các biện pháp quản lý hiệu quả lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong đó hướng đến việc vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phát huy, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu, kế thừa những giá trị văn hóa tiên tiến trên thế giới; đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa những văn hóa phẩm đồi trụy, đi ngược với những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.

Thứ hai, tổ chức tuyên truyền giáo dục đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào trong đời sống hiện thực, đảm bảo duy trì hoạt động thi hành nghiêm chỉnh pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, từ đó tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để xây dựng ý thức mới xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tích cực tuyên truyền các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống tốt đẹp trong nhân dân, phổ biến rộng rãi các giá trị văn hóa tiến bộ, khoa học của thời đại mới tới đông đảo quần chúng nhân.

Thứ ba, lực lượng Công an nhân dân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh bảo vệ những giá trị truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực của ý thức xã hội cũ, lạc hậu và những tiêu cực nảy sinh của mặt trái cơ chế thị trường.

Thứ tư, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội tạo điều kiện thuận lợi để đất nước ta thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bởi lẽ, khi đời sống vật chất được đảm bảo chính là cơ sở nền tảng để xây dựng đời sống văn hóa tinh thần tích cực, tiến bộ.

Thứ năm, phối hợp tích cực, có hiệu quả với các Bộ, Ngành, địa phương nhằm đảm bảo thực hiện tốt chủ trương của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.

Thứ sáu, mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân là tấm gương trong giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện tốt Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân. Xây dựng đời sống tinh thần tiến bộ ngay trong lực lượng Công an nhân dân, thực hiện ở từng cán bộ, chiến sỹ. Tăng cường phòng, chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.

3. Phát huy nhân tố con người trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân hiện nay

Hồ Chí Minh khẳng định bản chất công an Việt Nam khác công an đế quốc, bởi công an Việt Nam là Công an Nhân dân. Lực lượng Công an là thanh bảo kiếm của Đảng; là cơ quan chuyên trách nhà nước đảm bảo an ninh, trật tự; tham mưu, quản lý nhà nước, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật; vì lợi ích của nhân dân, vì nhân dân phục vụ.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phẩm chất mà người Công an cách mạng phải đạt được. Trong thư gửi Giám đốc Công an khu XII, Người đã viết:

“Tư cách người Công an cách mệnh là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép

Đối với công việc, phải tận tụy

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.

Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà người công an cách mệnh phải có, phải giữ cho đúng”[76].

Trong giai đoạn hiện nay, lực lượng Công an đang góp phần tích cực trong xây dựng con người mới ở Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng của mình trong góp phần xây dựng con người mới, lực lượng Công an cần thực hiện một số nguyên tắc sau đây:

Một là, bảo đảm an ninh con người có quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Công an nhân dân là lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; bên cạnh đó cần tích cực tham gia bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, thực hiện đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, đảm bảo quyền con người; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội mới. Lợi ích của con người luôn gắn liền với lợi ích của cộng đồng, xã hội, gắn liền với sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc mà họ sinh sống. Thực tiễn cho thấy, khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm thì an ninh con người cũng không thể bảo đảm. Chính vì vậy, giữ vững độc lập dân tộc, an ninh quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm an ninh con người được thực hiện và ngược lại an ninh con người được thực hiện chính là nhân tố tạo nên sức mạnh trong bảo vệ độc lập dân tộc và an ninh quốc gia. Đảng ta xác định: “... bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”[77], là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Thành tố “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” bao gồm trong nó lĩnh vực quốc phòng và an ninh, bởi dù là hai mảng công tác khác nhau song quốc phòng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Nghị quyết Đại hội XII xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ tới trở thành cơ sở, nền tảng vững chắc để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện tốt việc bảo đảm quốc phòng và an ninh; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu những nhân tố gây bất ổn định, hoặc các nhân tố gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong nội bộ ta hoặc những nhân tố phát sinh đột biến, bất lợi gây phương hại đến thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, an toàn xã hội và an ninh con người.

Xây dựng con người “thấm nhuần tinh thần dân tộc” là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện tốt vấn đề an ninh cho con người mới ở Việt Nam.

Con người “thấm nhuần tinh thần dân tộc” tức là mọi ý nghĩ, thái độ và hoạt động của con người đều có tính dân tộc, mang bản sắc dân tộc. Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam thấm nhuần tinh thần dân tộc là để con người Việt Nam biết đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, là bao hàm trong đó cả tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Thấm nhuần tinh thần dân tộc là thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội, dân tộc và đất nước; là tinh thần tự tôn dân tộc trong quan hệ quốc tế.

Trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, một số giá trị truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị mai một. Trong một vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đã xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng nông thôn. Biểu hiện cụ thể chính là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”[78]. Thực trạng đó đang đe dọa bảo vệ an ninh con người ở Việt Nam. Với ý nghĩa như vậy, bảo vệ an ninh con người không thể thực hiện được một cách hiệu quả, toàn diện khi những tinh hoa giá trị tinh thần dân tộc không được tỏa sáng, trở thành hạt nhân nuôi dưỡng tâm hồn, cốt cách bảo đảm cho con người Việt Nam được phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Theo đó, xây dựng con người “thấm nhuần tinh thần dân tộc” là điều kiện quan trọng đảm bảo vấn đề an ninh con người được thực hiện tốt trong thực tiễn.

Bảo đảm an ninh con người luôn gắn kết với phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực.

Thành quả của hơn 30 đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Điều đó đã tạo động lực cho nhân dân phát huy tinh thần tự chủ cũng như khơi dậy được ý thức tự lực, tự cường trong mọi hoạt động, tự ý thức trong việc bảo vệ an ninh chính trị của đất nước, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng. Tuy nhiên, để con người Việt Nam phát huy tốt nhất ý thức tự chủ của mình thì mọi người dân phải được phát triển toàn diện cả phẩm chất và năng lực. Phát triển phẩm chất và năng lực chính là yếu tố quan trọng để con người Việt Nam nâng cao sức “đề kháng” biết tự bảo vệ mình, bảo vệ cộng đồng, bảo vệ xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước và Tổ quốc. Với ý nghĩa như vậy, đảm bảo vấn đề an ninh con người luôn cần được gắn kết chặt chẽ với việc phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực.

Phát triển toàn diện con người là phát triển và vận dụng được toàn bộ các năng khiếu thể lực và trí lực con người về mọi mặt, theo đó Đảng ta chủ trương: “... xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật; phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”[79]. Sự bổ sung chuẩn mực giá trị con người Việt Nam của Đảng thể hiện nhất quán mục tiêu chiến lược của thực tiễn về xây dựng con người mới đang đặt ra; tạo thêm cơ sở khoa học, pháp lý để mọi tổ chức, tập thể, cá nhân vận dụng vào xây dựng chuẩn mực giá trị con người Việt Nam thiết thực, hiệu quả.

Xây dựng - bảo vệ - phát triển là một chu trình thống nhất và quan hệ biện chứng không tách rời nhau, xây dựng phải bảo vệ, bảo vệ để phát triển. Nói cách khác, vấn đề an ninh con người là vấn đề xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình xây dựng, phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Quá trình xây dựng, phát triển sẽ không thể mang lại thành công nếu không coi trọng đúng mức vấn đề an ninh con người. Do vậy, mọi sự coi nhẹ, tách rời trong tổ chức thực hiện những yếu tố đó đều dẫn đến bế tắc và rất có thể dẫn đến thất bại trong thực tiễn.

Để bảo vệ, xây dựng, phát triển toàn diện con người, cần phải hướng vào các hoạt động văn hóa, khoa học, giáo dục vào việc xây dựng thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam”[80] và “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo... Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là những nhiệm vụ quan trọng, cần có sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.

Bảo vệ an ninh con người luôn gắn kết chặt chẽ với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những nhân tố làm tha hóa con người.

An ninh con người là hướng vào bảo vệ những giá trị cốt lõi, sống còn nhất của con người trước các nguy cơ, đe dọa như bạo lực, hay suy thoái kinh tế. Thực trạng đó đã đẩy con người đến với cái thấp hèn, lạc hậu, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; điều đó làm cho con người bị tha hóa trên mọi phương diện của đời sống xã hội. Đây là những mối nguy hại ảnh hưởng đến “sự tồn vong của chế độ”[81], đến sự phát triển bền vững của đất nước và trực tiếp đe dọa an ninh con người. An ninh con người bị đe dọa tất yếu cản trở sự phát triển toàn diện con người, cản trở sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, bảo đảm an ninh con người bên cạnh việc xây dựng và phát triển phẩm chất, năng lực con người, khẳng định cái đúng, tôn vinh cái đẹp, tích cực, cao thượng, cần phải luôn “đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực... làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam”[82].

Đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu là ngăn chặn, đẩy lùi sự hủ hóa, không để cho cái xấu xâm nhập, lấn át cái tốt, chủ nghĩa cá nhân chi phối bản thân. Chúng ta đang sống trong một thế giới hết sức năng động, đầy những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, những xáo động, bất trắc, khó lường ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới của đất nước, đe dọa an ninh chính trị, an ninh xã hội, an ninh con người. Việc nhận thức đúng, đánh giá đúng thực tiễn trong tính chỉnh thể của nó chính là vấn đề quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững đất nước hiện tại và cho tương lai.

Đối với lực lượng vũ trang, việc nhận thức đúng, đủ, toàn diện vấn đề an ninh con người một mặt góp phần quán triệt sâu sắc nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội; mặt khác, góp phần nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị, xã hội trong tình hình mới. Bảo vệ an ninh con người chính là bảo đảm an ninh cộng đồng, an ninh xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước. Theo đó, chúng ta sẽ không có phát triển nếu không có an ninh, chúng ta sẽ không có được an ninh nếu không có sự phát triển.

Thứ hai, công an nhân dân góp phần bảo đảm quyền con người, chống lợi dụng quyền con người.

Một số thế lực thù địch, phản động sử dụng chiêu bài “tự do, nhân quyền” để chống phá chế độ, gây mất trật tự an toàn xã hội. Điều 25 Hiến pháp quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tuy vậy, chúng vẫn cắt xén, xuyên tạc Hiến pháp, tuyên bố rằng “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Hay chúng chỉ sử dụng một phần các điều khoản cho phù hợp lợi ích của chúng, tảng lờ những điều khoản quan trọng, không phù hợp lợi ích của chúng. Tiêu biểu là khoản 3 Điều 18 Công ước quy định: “Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác”, hay khoản 3 Điều 19 Công ước khẳng định: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (…) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý”.

Từ đó lực lượng Công an cần tham gia phòng, chống các hoạt động lợi dụng nhân quyền trong tôn giáo, trong dân tộc, tự do lương tâm, tự do trên mạng xã hội, tự do báo chí, lập hội, biểu tình; đồng thời bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân, quyền riêng tư, đảm bảo Luật An ninh mạng.

Thứ ba, tích cực tham gia công tác phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Là lực lượng vũ trang nhân dân, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, Công an nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu tranh phòng chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Lực lượng Công an chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương và chỉ đạo công an các cấp về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đồng thời, lực lượng Công an cần triển khai đồng bộ các biện pháp, phương án, kế hoạch phòng ngừa, phát hiện và kịp thời đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Muốn vậy, ngoài những đặc trưng của con người mới xã hội chủ nghĩa, mỗi cán bộ, chiến sĩ công an cần có đầy đủ các phẩm chất như Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; đặc biệt là lòng trung thành với Đảng, với chế độ. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lực lượng Công an nhân dân cần nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng chỉnh đốn Đảng, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật. Phải thực sự gần gũi với nhân dân, đoàn kết thống nhất, đề cao tinh thần chủ động, nhạy bén, cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Lực lượng Công an nhân dân luôn giữ trong mình nhiệt huyết, quyết tâm “giữ mình trong sạch, vững vàng, không bị sa ngã trước sự mua chuộc, quyến rũ của các phần tử xấu, “lợi ích nhóm”, đồng thời “không để kẻ địch mua chuộc, lôi kéo, tấn công vào nội bộ công an” như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu với toàn lực lượng Công an nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường, phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc nhất để cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang phát huy vai trò làm nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

 


 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học (Dùng trong đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ các ngành KHXH và NV không chuyên ngành Triết học). Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2014.

3. C.Mác và Ăngghen (1995): Toàn tập, t.3, t.4, t.20 Nxb CTQG, Hà Nội.

4. Davidovich V.E., Dưới lăng kính triết học. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, H.2011, t.5, t.8, t.11, Nxb CTQG, Hà Nội.

8. Học viện An ninh nhân dân (2018), Hỏi - đáp về triết học Mác - Lênin

9. Học viện An ninh nhân dân (2019), Sơ đồ hóa kiến thức cơ bản môn triết học Mác - Lênin

10. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp lý luận chính trị - Triết học Mác - Lênin. Nxb Lý luận Chính trị, H. 2018.

11. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

12. Hội đồng lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

13. Trần Văn Phòng (chủ biên), Giáo trình Triết học (dùng cho cao học không chuyên ngành triết học). Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2015.

14. GS.TS Phùng Hữu Phú, GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Vũ Văn Hiền, PGS.TS Nguyễn Viết Thông (2016): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

15. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị, Triết học Mác - Lênin- Phần I, Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - bậc đại học ). Nxb. QĐND, Hà Nội, 2008.

16. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị, Triết học Mác - Lênin- Phần II, Chủ nghĩa duy vật lịch sử (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội – bậc đại học). Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008.

17. Trần Đăng Sinh, Lê Văn Đoán (Đồng chủ biên) (2008), Chuyên đề triết học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

18. V.I.Lênin (2005) Toàn tập, t.1, 18, 29, 33, Nxb CTQG, Hà Nội.

 

 

 

 



[1] См: Мировоззрение. Философский энциклопедический словарь (Thế giới quan. Từ điển bách khoa triết học) (2010).http://philosophy.niv.ru/doc/dictionary/philosophy/fc/slovar - 204 - 2.htm#zag - 1683.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 403.

[3] V.I.Lênin: Toàn tp, Nxb Tiến b, Matxcơva, 1980, t.23, tr. 53.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 1, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr. 589.

[5] Sđd, tr.379

[6] V. I. Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M. 1981, t. 18, tr. 151.

[7] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tp, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr.751.

[8] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tp, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 67.

[9] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tp, Nxb CTQG, Hà Ni, 1994, t. 20, tr. 645

[10] Xem: V.I. Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M. 1980, t. 18, tr. 138.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, tp 20, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2004, tr. 38.

[12] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, tp 20, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2004, tr. 201.

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, tp 20, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2004, tr. 455.

[14] V.I.Lênin: Các Mác, Toàn tp, Hà Ni, 2005, t.23, tr.53.

[15] V.I.Lênin: Bút ký triết hc, Toàn tp, Hà Ni, 2005, t. 29, tr. 240.

[16] V.I.Lênin, Toàn tp, Hà Ni, 2005, t.36. tr. 252.

[17] V. I. Lênin: Bút ký triết hc, Toàn tp, Hà Ni, 2005, t. 29, tr. 381

[18] V. I. Lênin: Bút ký triết hc, Toàn tp, Hà Ni, 2005, t. 29, tr. 381

[19] Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 20, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2004, tr. 38

[20] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 431.

[21] C.Mác: Tư bn, Tp 3: Toàn b quá trình sn xut tư bn ch nghĩa, Phn th 2,  C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tp, Hà Ni, 2004. t. 25, phn II, tr. 540.

[22] V.I.Lênin: Bút ký triết hc, Toàn tp, Hà Ni, 2005. t. 29, tr. 268.

[23] V.I.Lênin: Bút ký triết hc, Toàn tp, Hà Ni, 2005. t. 29, tr. 240.

[24] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 20, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1995, tr. 191

[25] V.I.Lênin: Bút ký triết hc, Toàn tp, Hà Ni, 2005. t. 29, tr. 379

[26] V.I.Lênin: Toàn tp, Hà Ni, 2005. t. 26, tr. 65

[27]V.I.Lênin, Toàn tp, tp 18, Nxb Tiến b M. 1980,tr.167.

[28] V.I.Lênin, Toàn tp, tp 18, Nxb Tiến b M. 1980, tr.126.

[29] V.I.Lênin, Toàn tp, t. 18, Nxb Tiến b, M., 1980, tr.168.

[30] V.I.Lênin, Toàn tp, t. 29, Nxb Tiến b, M., 1981, tr.179.

[31] V.I.Lênin, Toàn tp, t. 18, Nxb Tiến b, M., 1980, tr.155.

[32] V.I.Lênin, Toàn tp, t. 18, Nxb Tiến b, M., 1980, tr.155.

[33] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tp, tp 19, Nxb Chính tr Quc gia, Hà Ni, tr500

[34] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 37, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1997, tr. 641.

[35] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tp, Nxb CTQG, Hà Ni, 1998, t. 34, tr. 241.

[36] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 6, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni , 1993, tr . 552.

[37] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tp, Nxb CTQG, Hà Ni, 2004, t. 3, tr. 39 - 40.

[38] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tp, Nxb CTQG, Hà Ni, 1998, t. 19, tr. 500.

[39] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 23, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, tr. 269.

[40] C.Mác và Ph.Ăngghen (2006):Toàn tp, t. 46 - Phn II, Nxb Chính tr Quc gia- S tht, Hà Ni, tr. 372.

[41] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 4, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1995, tr. 187.

[42] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 13, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1995, tr. 15.

[43] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tp, t. 23, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, tr . 21.

[44]V.I.Lênin, Toàn tp, t. 45, Nxb Tiến b, M.,1974, tr. 431.

[45] V. I. Lênin: Toàn tp, Nxb Tiến b, Matxcơva, 1974, t. 1, tr. 198.

[46] V. I. Lênin: Toàn tp, Nxb Tiến b, Matxcơva, 1974, t. 1, tr. 171.

[47] Đảng Cng sn Vit Nam, Văn kin Đại hi Đảng toàn quc ln th IX .Nxb Chính tr quc gia. H. 2001, tr. 84.

[48]V.I. Lênin, Toàn tp, t. 39, Nxb Tiến b, M.1977, tr. 17-18.

[49] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, t. 28, tr. 662.

[50] Sđ d, t39, tr298

[51] C.Mác và Ph.Awngghen: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1996, t28, tr662

[52]H Chí Minh, Toàn tp, t. 9, Nxb CTQG, H,.1996, tr.314.

[53]C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tp, t.21, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, tr. 257

[54]V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976,t.33,tr.11.

[55]Xem: Đảng Cng sn Vit Nam, Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2016, tr.171, 160.

[56]  V.I.Lênin: Toàn tp, nxb. Tiến b, Mátxcova, 1981, t.26, tr.66

[57] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tp, t.13. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, tr.15.

[58] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tp, t.12. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1993, tr.889.

[59] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tp, t.20. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1994, tr.437.

[60] V.I.Lênin, Toàn tp, t.17. Nxb Tiến b, Mátxcơva, 1979, tr.515-516.

[61] Hêghen. Toàn tp, t.IX. Mátxcơva, 1932, tr. 52 (Tiếng Nga).

[62]  C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia Hà Ni, 1995, t3, tr66

[63] V.I.Lênin, Toàn tp, t.41. Nxb Tiến b, Mátxcơva, 1978, tr.34.

[64] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, t. 41, tr. 361.

[65] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999, t. 1, tr. 39, 271.

[66] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tp, t.42. Nxb. Chính tr quc gia, Hà Ni, 2000, tr.135.

[67] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tp, t.3. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 1995, tr.11.

[68] V.I.Lênin: Toàn tp. Nxb. Tiến b, Mátxcơva, 1978, t.4, tr.473.

[69]H Chí Minh, Toàn tp, T. 13. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2011, tr.66.

[70] H Chí Minh, Toàn tp, T. 7. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2002. tr.209.

[71] H Chí Minh, Toàn tp, T. 4. Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2002. tr.56.

[72] Đảng Cng sn Vit Nam: Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Ni 2011, tr.76.

[73]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011, tr.49.

[74] Đảng Cng sn Vit Nam, Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Ni 2016, tr 126-127.

[75]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr78.

[76] H Chí Minh (1995): Toàn tp, tp 5, Nxb Chính tr quc gia - S tht, Hà Ni, tr. 406-407

[77] Đảng Cng sn Vit Nam (2016): Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, tr. 11

[78] Đảng Cng sn Vit Nam (2016), Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, tr. 70-74

[79] Đảng Cng sn Vit Nam (2016), Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni,  tr. 29.

[80] Đảng Cng sn Vit Nam (2016): Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, tr. 29.

[81] Đảng Cng sn Vit Nam (2012): Văn kin Hi ngh ln th tư Ban Chp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, tr. 22

[82] Đảng Cng sn Vit Nam (2016): Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th XII, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, tr. 127

GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
  • Title : GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
  • Posted by :
  • Date : 18:19
  • Labels :
  • Blogger Comments
  • Facebook Comments

0 comments:

Đăng nhận xét

Top