LỜI NÓI ĐẦU
Triết
học Mác - Lênin là môn học tiên quyết và bắt buộc trong chương trình đào tạo hệ
đại học, cao đẳng trên toàn quốc. Theo Hướng dẫn số 3056/BGD & ĐT - GDDH
ngày 19 tháng 7 năm 2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thay đổi nội dung
chương trình, giáo trình các môn lý luận chính trị, môn Triết học Mác - Lênin
có sự thay đổi về thời lượng từ 2 tín chỉ tăng lên 3 tín chỉ và thực hiện việc
giảng dạy từ năm học 2019 - 2020. Tuy nhiên, trong năm học này Bộ Giáo dục và
Đào tạo chưa xuất bản giáo trình môn học áp dụng cho các trường đại học và cao
đẳng thực hiện giảng dạy. Trước tình hình trên, Học viện An ninh nhân dân tổ chức
biên soạn Tập bài giảng môn Triết học Mác
- Lênin dùng cho hệ đào tạo để đảm bảo việc giảng dạy theo đúng quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Cuốn
sách được kết cấu thành 3 chương theo Chương trình đào tạo môn Triết học Mác -
Lênin của Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành năm 2019. Trên cơ sở chương trình đào
tạo, Tập thể tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội
đồng lý luận trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, và các cơ
quan khác biên soạn như: 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin (dành cho sinh viên Đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; 2. Hội đồng trung ương chỉ
đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh (2011), Giáo trình Triết học Mác
- Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; 3. Hội đồng lý luận
Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh
chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” về chính trị trong Đảng, Nxb
Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội; 4. Mai Diệu Anh (chủ biên), Hà Vũ Long (2017), Hỏi và đáp về triết học Mác-Lênin, Học
viện An ninh nhân dân, Hà Nội;...
Bên
cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin phù hợp với học viên Học viện An ninh nhân dân, cuốn
sách có bổ sung nội dung vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam và vận dụng trong
công tác Công an nhằm góp phần định hướng thế giới quan, phương pháp luận cho
người học, tạo cơ sở lý luận để tiếp cận các khoa học cụ thể trong chương trình
đào tạo của Học viện.
Trong
quá trình biên soạn, mặc dù có nhiều cố gắng song không tránh khỏi những thiếu
sót, vì vậy Tập thể tác giả mong muốn nhận được nhiều góp ý của các chuyên gia,
nhà khoa học để cuốn sách này có chất lượng tốt hơn.
Xin
trân trọng cảm ơn!
TẬP THỂ TÁC GIẢ BIÊN SOẠN
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC
Với
tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Triết học ra đời gắn liền
với quá trình hình thành, phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực nhận thức
khái quát của con người. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính,
nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn, có khả năng tổng hợp,
trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quy luật, quan
điểm, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học
xuất hiện.
* Nguồn gốc xã hội
Triết học ra đời khi xã hội
loài người đã đạt đến một trình độ sản xuất xã hội tương đối cao, phân công lao
động xã hội hình thành, của cải tương đối thừa dư, tư hữu hóa tư liệu sản xuất
được luật định, giai cấp phân hóa rõ và mạnh, nhà nước ra đời. Trong một xã hội
như vậy, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay, tầng lớp trí thức xuất hiện,
đủ năng lực tư duy để trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa toàn bộ tri
thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học thuyết
triết học. Với sự tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, của
giai cấp và nhà nước, triết học, tự nó đã mang tính giai cấp sâu sắc, nó có vai
trò phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
b. Khái niệm Triết
học
Triết học ra đời từ rất sớm,
khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN với những thành tựu rực rỡ đạt được
trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp thời cổ đại.
Mặc
dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng triết học đều được xem là hình thái
cao nhất của tri thức, là hệ thống tri thức
lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của
con người trong thế giới đó. Theo đó, triết học là một hình thái ý thức xã
hội, có khách thể nghiên cứu là thế giới trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó,
nhằm tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự
vận động của thế giới, của con người và của tư duy. Tri thức triết học mang
tính hệ thống, lôgíc và trừu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản,
những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại.
c. Vấn
đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Cùng
với quá trình phát triển của xã hội, của nhận thức và của bản thân triết học,
đối tượng của triết học cũng thay đổi trong các trường phái khác nhau.
Ở Thời
kỳ Hy lạp Cổ đại, triết học đã được xem là hình thái cao nhất của tri
thức, bao hàm trong nó tri thức của tất cả các lĩnh vực. Triết học
thời kỳ này được gọi là nền triết học tự nhiên.
Ở
Tây Âu thời Trung cổ, khi quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực
đời sống xã hội thì nền triết học
tự nhiên bị thay bằng nền triết
học kinh viện. Đối tượng của triết học này tập trung vào các chủ đề như
niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục, mặc khải hoặc chú giải các tín điều
phi thế tục…
Thế
kỷ XV - XVI, sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
cùng những thành tựu khác của khoa học thực nghiệm dẫn đến đòi hỏi ra đời các bộ
môn khoa học chuyên ngành, đồng thời thúc đẩy cuộc đấu tranh giữa khoa học,
triết học duy vật với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật,
các học thuyết triết học duy tâm cũng xuất hiện như Cantơ và Hêghen, đại
biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.
Như vậy, sự phát triển
của các khoa học chuyên ngành từng bước xóa bỏ vai trò của triết học tự
nhiên cũ muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa học”. Triết học Hêghen
là học thuyết triết học cuối cùng thể hiện tham vọng đó.
Đến đầu thế kỷ XIX,
hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đã
dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác xác định đối
tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
d. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới
quan
*
Thế
giới quan
Có thể định nghĩa: Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức,
quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của
con người trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong
định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Những thành phần chủ yếu của thế giới
quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp
hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được
kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ
phát triển cao nhất của thế giới quan.
Thế
giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nên cũng có nhiều cách phân
loại khác nhau. Chẳng hạn, thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo,
thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học; theo những căn cứ phân chia
khác, thế giới quan còn được phân loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc
người, hoặc thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan thông thường…[1].
Thế
giới quan chung nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và
trong toàn bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học.
* Hạt nhân lý luận của thế
giới quan
Nói
triết học là hạt nhân của thế giới quan, bởi thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác
như thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay
các thời đại… triết học là nhân tố cốt lõi. Thứ
ba, với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế
giới quan thông thường…, triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế
nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.
Thế
giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã
hội loài người. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương
thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển của thế giới
quan là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của
mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội
dung vấn đề cơ bản của triết học
Ph.Ăngghen
viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”[2].
Vấn
đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Mặt
thứ nhất: Giữa ý thức và vật
chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt
thứ hai: Con người có khả
năng nhận thức được thế giới hay không?
Cách trả
lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và xác định việc
hình thành các trường phái lớn của triết học như chủ nghĩa duy vật, chủ
nghĩa duy tâm, thuyết Có thể biết
và thuyết Không thể biết,…
b. Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm
Việc
giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các
nhà triết
học thành hai trường phái lớn, đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
-
Chủ nghĩa duy vật: Có quan điểm
cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người. Các nhà duy vật
giải thích nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế
giới này là nguyên nhân vật chất.
Cho
đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
+ Chủ
nghĩa duy vật chất phác là hình thức cơ bản đầu tiên trong lịch sử của chủ
nghĩa duy vật, là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời
Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật
chất và đưa ra những kết luận còn mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất
phác. Tuy còn hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật thời kỳ này về cơ bản là
đúng, không viện đến thần thánh hay các lực lượng siêu nhiên.
+ Chủ
nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa
duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực
rỡ nên chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới. Tuy còn những hạn chế nhưng chủ nghĩa
duy vật siêu hình đã góp phần đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
+ Chủ
nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa
duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX,
sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa các học thuyết triết
học trước đó và khái quát những thành tựu của khoa học đương thời, chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của các hình thức
trước đó và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.
- Chủ nghĩa duy tâm: Có quan điểm cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có
trước giới tự nhiên. Các học thuyết của họ chủ trương giải thích toàn bộ thế
giới này bằng các nguyên nhân tư tưởng, tinh thần.
Chủ
nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa
duy tâm khách quan.
+ Chủ
nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận
sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng
định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận
tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập
với con người. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của
một lực lượng siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, các tôn
giáo thường sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho
các quan điểm của mình.
Về
phương diện nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ việc tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận
thức của con người. Về nguồn gốc xã hội, sự tách rời lao động trí óc
với lao động chân tay đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân
tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều lực lượng xã hội
đã từng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho
những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
Trong lịch sử triết học, học thuyết nào thừa nhận chỉ
một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là bản nguyên của thế
giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là nhất nguyên luận.
Song, có những học thuyết triết học giải thích thế giới bằng cả hai bản
nguyên vật chất và tinh thần được gọi là nhị nguyên luận.
c.
Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết Bất khả
tri)
Đây
là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết
học.
Học
thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi
là thuyết Khả tri. Thuyết khả tri khẳng định con người về nguyên tắc có
thể hiểu được bản chất của sự vật.
Học
thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi
là thuyết không thể biết (thuyết bất khả tri). Theo thuyết này, con
người, về nguyên tắc, không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Theo họ,
kết quả nhận thức của con người chỉ là hình thức bề ngoài, không phải là cái
tuyệt đối tin cậy. Đại biểu cho thuyết bất khả tri là Hium và Cantơ. Hium quan
niệm tri thức con người chỉ dừng ở trình độ kinh nghiệm. Chân lý phải phù hợp với
kinh nghiệm. Cantơ với thuyết về Vật tự
nó, cho rằng con người không thể có được những tri thức đúng đắn, chân thực,
bản chất về những thực tại nằm ngoài kinh nghiệm có thể cảm giác được.
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời
và phát triển của triết học Mác - Lênin
a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác
Triết học Mác ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển
lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại, phụ thuộc vào những điều
kiện kinh tế - xã hội của thời đại. Đó cũng là kết quả của sự thống nhất giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng
công nghiệp.
Những
năm 40 của thế kỷ XIX, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp làm cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước châu Âu được củng cố vững chắc.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất cũng làm cho quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa được củng cố. Những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày
càng rõ rệt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc
đấu tranh giai cấp.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch
sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng cho sự
ra đời triết học Mác.
Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản vốn mang tính chất đối kháng càng phát triển
làm nguyên nhân nổ ra những cuộc đấu tranh giai cấp. Tiêu biểu như cuộc khởi
nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) từ
năm 1835 đến năm 1848, cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1844,...
Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài chính trị cho thấy
đây chính là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ
sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản đặt ra đã được phản ánh bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp
khác nhau, sản sinh ra nhiều biến thể của chủ nghĩa xã hội như: "chủ nghĩa
xã hội phong kiến", "chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản", "chủ
nghĩa xã hội tư sản",...
Sự
xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận
tiến bộ và cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của
giai cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử đã được sáng tạo nên bởi C.Mác
và Ph.Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận.
*
Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên
Nguồn
gốc lý luận
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt những “hạt nhân hợp lý”
trong triết học của Hegel và Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết
học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những
người theo học triết học Hegel. Trong khi phê phán tính chất duy tâm của triết
học Hegel, các ông đã kế thừa và cải tạo tư tưởng biện chứng của nó để xây dựng
nên lý luận mới - phép biện chứng duy vật. Mặt khác, các ông đã kế thừa chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình của nó để xây dựng
nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với
nhau.
Sự hình thành triết học Mác còn diễn ra trong sự tác động
lẫn nhau và thâm nhập vào nhau với những tư tưởng, lý luận về kinh tế chỉnh trị
cổ điển của Adam Smith (A.Xmit), David Ricardo (Đ. Ricacđô) và chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông và Sáclơ Phuriê.
Tiền
đề khoa học tự nhiên
Đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng như định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế
bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn.. Những phát minh này cung cấp cơ sở khoa học
để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của phép biện chứng Cổ đại,
đồng thời thoát khỏi vỏ bọc thần bí của phép biện chứng duy tâm.
Như vậy, triết học Mác ra đời như một
tất yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, mà còn vì những tiền đề
cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
*
Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
C.Mác (1818 - 1883), với một trí tuệ uyên bác bao trùm
nhiều lĩnh vực và một nhãn quan chính trị đặc biệt nhạy cảm; C.Mác đã vượt qua
những hạn chế lịch sử của các nhà triết học đương thời để giải đáp thành công
những vấn đề bức thiết về mặt lí luận của nhân loại.
Ph.Ăngghen
(1820 - 1895), ngay từ thời trai trẻ đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và nghị
lực nghiên cứu, học tập phi thường. C.Mác tìm thấy ở Ph.Ăngghen một người cùng
tư tưởng, một người đồng chí trợ lực gắn bó mật thiết trong sự nghiệp chung.
Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều xuất thân từ tầng lớp trên của
xã hội đương thời, nhưng hai ông đều sớm tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho
cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của nhân loại. Bản thân hai ông đều tích cực tham
gia hoạt động thực tiễn. Sống trong phong trào công nhân, hai ông đã đứng về
phía những người cùng khổ, đấu tranh không mệt mỏi vì lợi ích của họ, trang bị
cho họ một công cụ lý luận sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực.
b.
Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Mác
* Thời kỳ chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ
cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 - 1844)
Trong
giai đoạn này, bằng các hoạt động viết báo, tìm hiểu và tham gia tích cực vào
phong trào công nhân, đấu tranh chống lại chính quyền Phổ và giai cấp tư sản,
phê phán có kế thừa tư tưởng triết học của Hêghen và Phoiơbắc đã giúp C. Mác và
Ph.Ăngghen chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường
dân chủ cách mạng sang lập trượng cộng sản cách mạng. Các bài viết tiêu biểu
trong thời kỳ này như: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hegel của C.Mác, Phác thảo
góp phần phê phán kinh tế chính trị học, Tình cảnh nước Anh,... của
Ph.Ăngghen.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử (1844
- 1848)
Đây
là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng
cho một triết học mới với nhiều tác phẩm lớn ra đời. Tác phẩm Bản thảo kinh
tế - triết học 1844 phê phán triết học duy tâm của Hegel và kinh tế chính
trị học cổ điển của Anh, luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản
trong sự phát triển xã hội. Gia đình thần thánh (1845) là tác phẩm chứa
đựng quan niệm hầu như đã hoàn thành của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp
vô sản. Luận cương về Feuerbach ra
đời năm 1845 khẳng định
vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội và sứ mệnh "cải tạo
thế giới" của triết học Mác. Hệ tư tưởng Đức được C.Mác và
Ph.Ăngghen viết vào cuối năm 1845 - đầu năm 1846 trình bày quan điểm duy vật lịch
sử một cách hệ thống - xem xét lịch sử xã hội xuất phát từ con người hiện thực. Tác phầm Sự khốn cùng của triết học được
C.Mác viết năm 1847
tiếp tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đặc biệt,
năm 1848, C.Mác cùng Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trình bày
thống nhất các quan điểm triết học với quan điểm kinh tế và các quan điểm chính
trị - xã hội.
* Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển
toàn diện lí luận triết học (1848 - 1895)
Trong
thời kỳ này, Mác viết hàng loạt tác phẩm quan trọng. Hai tác phẩm: Đấu tranh
giai cấp ở Pháp và Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ đã tổng
kết cuộc cách mạng Pháp (1848 - 1849). Các năm sau, cùng với những hoạt động
tích cực để thành lập Quốc tế I, Mác đã tập trung viết nhiều tác phẩm như bộ Tư
bản (tập 1 xuất bản 9/1867), Góp phần phê phán kinh tế chính trị học (1859), Nội chiến ở Pháp năm
1871 và viết tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô ta năm 1875.
Trong
khi đó, Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu tranh chống lại
những kẻ thù của chủ nghĩa Mác và khái quát những thành tựu của khoa học. Với
các tác phẩm như: Biện chứng của tự nhiên và Chống Đuyrinh, Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884) và Lútvích
Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886)... Ph.Ăngghen
đã trình bày triết học Mác dưới dạng một hệ thống lí luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh. Sau khi Mác
qua đời, Ph.Ăngghen đã hoàn chỉnh và xuất bản hai quyển còn lại trong bộ Tư
bản của Mác.
c.
Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện
Sự
ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học
nhân loại. Điều này được thể hiện trên các phương diện cơ sản sau:
C.Mác
và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Trước
Mác, các học thuyết triết học duy vật cũng đã chứa đựng không ít những luận điểm
riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng. Song, chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng tách rời nhau. Với việc kết hợp giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi
tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện chứng khỏi tính
chất duy tâm thần bí, Mác và Ph.Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử, đã sáng tạo
ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
C.Mác và Ph.
Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của bước
ngoặt cách mạng trong triết học.
Với
việc cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật cũ và phê phán những quan điểm duy tâm
về lịch sử xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã "làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận
thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu
vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học"[3].
C.Mác
và Ph.Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng tạo ra triết học
duy vật biện chứng - một triết học chân chính khoa học.
Phương
thức theo đó C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra một triết học hoàn toàn mới, chính
là việc các ông đã khám phá ra bản chất, vai trò của thực tiễn, sự thống nhất
giữa quá trình phát triển lí luận với thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn đấu
tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động.
Với
sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị
trí của nó trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại cũng có sự biến đổi rất
căn bản. Giờ đây, triết học không chỉ có chức năng giải thích thế giới, mà còn
phải trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới.
Lần
đầu tiên trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã công khai tính giai cấp của triết học, biến triết học của mình thành vũ khí
tinh thần của giai cấp vô sản. "Giống như triết học thấy giai cấp vô sản
là vũ khí vật chất của mình, giai cấp
vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh
thần của mình"[4].
Ở
triết học Mác, tính đảng và tính khoa học thống nhất hữu cơ với nhau.
Càng thể hiện tính đảng - duy vật biện chứng triệt để, thì càng mang bản chất
khoa học và cách mạng sâu sắc, và ngược lại.
Triết học Mác ra đời cũng đã chấm dứt tham vọng
biến triết học thành "khoa học của mọi khoa học", xác lập mối quan hệ khăng khít giữa triết học với
khoa học cụ thể.
Một
trong những đặc trưng nổi bật của triết học Mác là tính sáng tạo. Bởi lẽ
đây là một học thuyết phán ánh thế giới vật chất trong trạng thái vận động phát
triển không ngừng. Do đó, triết học Mác là một hệ thống mở luôn luôn được bổ
sung, phát triển bởi những thành tựu khoa học và thực tiễn.
Triết
học Mác mang trong mình tính nhân đạo cộng sản. Đó chính là lí luận khoa
học xuất phát từ con người, vì mục tiêu giải phóng con người, trước hết là giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức bóc lột, phát
triển tự do, toàn diện con người.
Như
vậy, với việc bổ sung những đặc tính mới, C.Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo ra một
học thuyết triết học cao hơn, hoàn bị hơn - triết học duy vật biện chứng, trở
thành một khoa học chân chính, vũ khí tinh thần cho giai cấp vô sản và nhân dân
lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải
phóng xã hội.
d. Giai đoạn Lênin
trong sự phát triển Triết học Mác
V.I.Lênin là người đã kế tục trung thành, bảo
vệ và phát triển sáng tạo cả ba bộ phận của chủ nghĩa Mác, đáp ứng đòi hỏi
khách quan của thời đại mới.
* Hoàn cảnh
lịch sử V.I.Lênin phát triển Triết học Mác
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư
bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc; nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng
thế giới và sự phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Nhiệm vụ nghiên cứu giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa tư bản; tiếp tục
làm giàu và phát triển triết học Mác đã được V.I.Lênin giải quyết một cách trọn
vẹn trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những phát
minh lớn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đã làm đảo lộn quan niệm về thế giới.
Lợi dụng tình hình đó, những người theo chủ nghĩa duy tâm, cơ hội, xét lại...
đã tấn công lại chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác. V.I.Lênin đã thực hiện việc
luận giải những thành tựu mới của khoa học tự nhiên; phát triển chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử phù hợp với điều kiện mới.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư
sản đã tiến hành một cuộc tấn công điên cuồng trên lĩnh vực tư tưởng, nhiều
trào lưu tư tưởng lý luận mang màu sắc duy tâm xuất hiện, muốn thay thế triết học
Mác. Vì thế, việc bảo vệ và phát triết học Mác cho phù hợp với điều kiện lịch sử
mới đã được V.I.Lênin thực hiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
* V.I.Lênin trở thành người kế tục trung
thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới
V.I.Lênin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại
thành phố Ximbiếcxcơ của nước Nga. Ông là người mở ra thời kỳ mới trong sự phát
triển của lý luận mácxít, làm phong phú thêm tất cả các bộ phận cấu thành chủ
nghĩa Mác.
Thời kỳ 1893 - 1907,
V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác và chuẩn bị thành lập đảng mácxít ở
Nga hướng tới cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.
Trong thời kỳ này, V.I.Lênin đã đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, phương pháp siêu hình của phái Dân túy, bảo vệ và phát triển
phép biện chứng duy vật, nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội, phát
triển nhiều quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận hình
thái kinh tế - xã hội.
Từ 1907 - 1917 là thời kỳ V.I.Lênin
phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn
bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ này, để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa
Mác trước sự tấn công từ nhiều phía, V.I.Lênin viết nhiều tác phẩm như: Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908), Bút ký triết học (1914 - 1916), Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa
tư bản (1913), Nhà
nước và cách mạng (1917). Các tác phẩm trên tập trung khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, phê phán triết học duy tâm tư
sản và chủ nghĩa xét lại, bảo vệ chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận duy vật
biện chứng về nhận thức, phép biện chứng duy vật, phân tích chủ nghĩa đế
quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, đêm trước của cách mạng xã hội
chủ nghĩa chuẩn bị mặt lý luận cho cuộc cách
mạng vô sản đang đến gần.
Từ 1917 - 1924, Lênin tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, nghiên cứu các vấn đề xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Sau Cách mạng Tháng mười năm 1917, nước
Nga Xô viết bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh chống mọi loại kẻ thù của chủ nghĩa Mác nói
chung và triết học Mác nói riêng.
Các tác phẩm được Lênin viết trong thời
kỳ này như: Sáng kiến vĩ đại, Bệnh ấu trĩ
"tả khuynh" trong phong trào cộng sản, Chính sách kinh tế mới,...
Với những tác phẩm này, Lênin đã góp phần hoàn thiện, làm phong phú thêm triết
học Mác trên các lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp, mối quan hệ chặt chẽ
giữa đảng và quần chúng, vai trò lãnh đạo của Đảng trong thiết lập chuyên chính
vô sản và cải tạo xã hội chủ nghĩa, lý luận về tình thế cách mạng và thời cơ
cách mạng, về thời kỳ quá độ, đặc biệt là chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp, vấn đề liên minh
công nông.
Như vậy, chủ nghĩa Lênin không phải là “sự giải thích”
chủ nghĩa Mác mà là sự bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác, trong đó có
triết học trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản.
* Thời kỳ từ
1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các Đảng Cộng sản và công
nhân bổ sung, phát triển
Từ sau khi V.I.Lênin mất đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp
tục được các đảng cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển. Tuy nhiên, quá trình
phát triển triết học Mác - Lênin cũng gặp không ít khó khăn do những sai lầm,
khuyết điểm trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước những
biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của thời đại ngày nay đòi hỏi các đảng cộng sản vận
dụng thế giới quan, phương pháp luận mácxít để tổng kết thực tiễn khái quát lý
luận định ra đường lối, chiến lược, sách lược phù hợp với yêu cầu khách quan
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, đồng thời
có đóng góp quan trọng vào sự phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện
mới.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực
và trong nước đang có biến động nhanh chóng và phức tạp, các thế lực thù địch
đang ra sức chống phá chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc triết học Mác - Lênin. Việc đấu
tranh bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử mới
đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đấu
tranh chống các tư tưởng cơ hội, xét lại, khắc phục bệnh giáo điều, duy ý chí;
trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học tiếp tục
nghiên cứu làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin
a. Khái
niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác -
Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy -
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế
giới.
Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự
nhiên, xã hội và tư duy. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác -
Lênin là hình thức phát triển cao nhất trong lịch sử triết học - chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin
là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biện
chứng duy vật.
Triết học Mác - Lênin trở thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và
cải tạo xã hội.
b. Đối tượng của triết học Mác - Lênin
Khắc phục những
hạn chế và đoạn tuyệt với những quan niệm sai lầm của các hệ thống triết học
khác, triết học Mác - Lênin xác định đối
tượng nghiên cứu là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường
duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Vượt qua những hạn
chế lịch sử của các hệ thống triết học khác, triết học Mác - Lênin xác định đối
tượng nghiên cứu của mình không chỉ những quy luật phổ biến của tự nhiên nói
chung, mà còn bao gồm cả những quy luật phổ biến của lịch sử xã hội.
c. Chức năng của triết học Mác - Lênin
Chức năng thế giới
quan
Thế giới quan
duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận
thức đúng đắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu
nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức, nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn
chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Thế giới quan
duy vật biện chứng là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan
duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Nó là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng trong cuộc đấu tranh với các tư
tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
Chức năng phương
pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những
quan điểm, nguyên tắc xuất phát có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu.
Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học
Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, triết
học Mác - Lênin không phải là “đơn thuốc vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn
đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học,
con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
xã hội.
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay và ý nghĩa trong công tác Công an
*
Trong đời sống xã hội, Triết
học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
con người trong nhận thức và thực tiễn
Những nguyên lý và quy luật cơ bản của triết học Mác -
Lênin có giá trị định hướng quan trọng cho con người trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, tránh được những sai lầm, mò mẫm.
Xuất phát từ lập trường triết học
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp chặt chẽ tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức
khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (sự hiểu biết tình hình thực tiễn
và trình độ tay nghề) - là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công của chúng ta
trong hoạt động cụ thể của mình.
Triết
học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đòi hỏi con người khi bước vào thế kỷ XXI cần có những thay đổi mang
tính cơ bản và sâu sắc về mặt nhận thức. Mặt khác, triết học Mác - Lênin đóng
vai trò là cơ sở lý luận - phương pháp luận cho các phát minh khoa học hiện
đại.
Cùng với sự phát
triển của khoa học và cách mạng hiện đại, xu thế toàn cầu hoá đang tăng lên
không ngừng. Trong bối cảnh đó, triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển
của xã hội hiện đại.
Triết học Mác -
Lênin còn là lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn
ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
* Triết học Mác
- Lênin là cơ sở lý luận khoa học của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới
toàn diện ở Việt Nam được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận vì vậy tất yếu
phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy
vật.
Thế giới quan triết học Mác - Lênin giúp chúng ta đánh
giá đúng đắn bối cảnh mới của thời đại, tình hình thế giới và trong nước. Từ
đó, giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong giai đoạn mới, khi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các
nước Đông Âu, chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ.
Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin giúp chúng ta
giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực
tiễn đổi mới hơn 30 năm qua. Đó là việc giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của
quá trình đổi mới.
* Đối với công tác Công an, triết học Mác - Lênin
cung cấp thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn trong nhận thức và giải quyết
các nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân
Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam muốn thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho cần phải được trang bị một
thế giới quan khoa học, một lập trường duy vật đúng đắn, triệt để của triết học
Mác - Lênin để làm cơ sở xem xét, đánh giá đúng các vấn đề tự nhiên, xã hội và
con người liên quan đến nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự.
Quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận của triết
học Mác - Lênin như nguyên tắc khách quan, phát huy tính năng động chủ quan,
nguyên tắc toàn diện, lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm thực
tiễn, quan điểm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân giúp cho việc xây dựng
các chủ trương, nghị quyết của Ngành Công an đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với
thực tế khách quan, tính hiệu quả cao và hướng tới mục tiêu phát triển chung
của con người và xã hội.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo đúng đắn, các mặt công
tác của lực lượng Công an nhân dân được triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Nhận thức vai
trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi
mỗi cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng Công an nhân dân cần nâng cao trách nhiệm
học tập, nghiên cứu triết học Mác - Lênin nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin
nói chung, hiểu sâu sắc bản chất khoa học, cách mạng và giá trị nhân văn của
nó, từ đó nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình
học tập, nghiên cứu triết học Mác - Lênin
phải gắn liền với việc vận dụng sáng tạo vào thực tiễn công tác, bằng thực tiễn
để bổ sung, phát triển lý luận. Mặt khác, lực lượng Công an tích cực tham gia
bảo vệ, tuyên truyền các giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin
tới đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh chống mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc triết học Mác - Lênin,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới.
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về phạm trù vật chất
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại hiện
thực của giới tự nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do "sự tha
hoá" của "tinh thần thế giới". Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho
rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật, hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc
vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức. Như vậy, về thực
chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật
chất. Thế giới quan duy tâm rất gần với thế giới quan tôn giáo và tất yếu dẫn
họ đến với thần học.
Quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học
duy vật là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân
giới tự nhiên để giải thích tự nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ
để các nhà duy vật trước C. Mác đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền
tảng này. Các nhà duy vật thời Cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ
thể của nó và xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những
vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài, chẳng hạn, nước
(Thales), lửa (Heraclitus), không khí (Anaximenes); đất, nước, lửa, gió (Tứ đại
- Ấn Độ), Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (Ngũ hành - Trung Quốc). Một số trường hợp
đặc biệt, họ quy vật chất (không chỉ vật chất mà thế giới) về những cái trừu
tượng như Không (Phật giáo), Đạo (Lão Trang). Hay như nhà triết học Hy Lạp cổ
đại Anaximander cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng
vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn, đó là Apeirôn. Bước
tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất
của hai nhà triết học Hi Lạp cổ đại là Lơxíp (khoảng 500 - 440 tr.CN) và
Đêmôcrít (khoảng 427 - 374 tr.CN). Cả hai ông đều cho rằng, vật chất là nguyên
tử.
Thời kỳ Phục
hưng (thế kỷ XV) khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự phát triển mạnh
của cơ học, của công nghiệp. Đến thế kỷ XVII -XVIII, chủ nghĩa duy vật mang
hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được các
nhà triết học và khoa học tự nhiên thời kỳ Phục Hưng và Cận đại (thế kỷ XV -
XVIII) như Galilê, Bêcơn, Hốpxơ, Xpinôda, Hônbách, Điđơrô, Niutơn... tiếp tục
nghiên cứu, khẳng định trên lập trường duy vật. Đặc biệt, những thành công kỳ
diệu của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và thuộc tính của
các vật thể vật chất vĩ mô - bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên) và việc khoa
học vật lý thực nghiệm chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng
làm cho quan niệm trên đây được củng cố thêm.
Song, do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên
nhìn chung các nhà triết học duy vật thời kỳ cận đại đã không đưa ra được những
khái quát triết học đúng đắn. Họ thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi
những định luật cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và giải thích mọi
hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần tuý cơ học; xem vật chất,
vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối liên
hệ nội tại với nhau... Cũng có một số nhà triết học thời kỳ này cố gắng vạch ra
những sai lầm của thuyết nguyên tử (chẳng hạn như Đềcáctơ, Cantơ...) nhưng
không nhiều và không thể làm thay đổi căn bản cái nhìn cơ học về thế giới,
không đủ đưa đến một định nghĩa hoàn toàn mới về phạm trù vật chất.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật
siêu hình về vật chất
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren
phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1897, Tômxơn phát
hiện ra điện tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử
không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử. Năm
1898 - 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie,
nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và rađium.
Những phát hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng, nguyên tử không phải là phần tử nhỏ
nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hoá. Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp và
năm 1916, Thuyết Tương đối Tổng quát của A.
Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi
cùng với sự vận động của vật chất. Thế giới vật chất không có và không thể có
những vật thể không có kết cấu, tức là không thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối
đơn giản và bất biến để đặc trưng chung cho vật chất.
Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự
nhiên, không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát,
siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy
vật. Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa
duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy
tâm. V.I.Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm vật lý học” và coi đó là “một bước
ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng
thành”, là “một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt
rác”. Để khắc phục cuộc khủng hoảng này; V.I.Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật
cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ
chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ
nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”[5].
c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin
về vật chất
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen về vấn đề
vật chất, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất
của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm
(đang lầm lẫn hoặc xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con
người về vật chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật), qua đó bảo vệ và phát
triển quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy
vật. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin
đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”[6].
Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến nay vẫn được các
nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái
tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các
giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ
là sự phản ánh của nó.
Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà
khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức
nhân loại. Ngày nay, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng
phát triển với những khám phá mới mẻ càng khẳng định tính đúng đắn của quan
niệm duy vật biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó mà, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày càng
khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các
khoa học hiện đại.
Ý nghĩa khoa
học của quan niệm vật chất của Triết học Mác - Lênin.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết cả hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận
khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa
duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về
phạm trù này.
- Quán triệt nguyên
tắc khách quan – xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan,
nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan...
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội – đó là
các điều kiện sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất xã hội; tạo sự liên
kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ
thống lý luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc
phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
d. Các hình
thức tồn tại của vật chất
* Vận động
Sự tồn tại của thế giới vật chất hết sức phong phú và
phức tạp. Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất,
- tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố
hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”[7].
Vận động là phương
thức tồn tại của vật chất.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở đâu
và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Sự tồn tại của vật chất là
tồn tại bằng cách vận động, tức là vật chất dưới các dạng thức của nó luôn luôn
trong quá trình biến đổi không ngừng. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là một
thể thống nhất có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh hướng, các bộ
phận khác nhau, đối lập nhau. Trong hệ thống ấy, chúng luôn tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau và chính sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau ấy gây ra sự biến đổi
nói chung, tức vận động. Như thế, vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến.
Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.
Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm
hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội. Cơ sở của sự
phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương ứng với
trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối liên hệ
phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những hình
thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao
khác về chất so với hình thức vận động thấp và không thể quy về hình thức vận
động thấp. Việc phân chia các hình thức vận động cơ bản có ý nghĩa quan trọng
đối với việc phân chia đối tượng và xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa
học, đồng thời cũng cho phép vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương quan
giữa các hình thức vận động của vật chất. Trong tương lai, khoa học hiện đại có
thể sẽ phát hiện ra những trình độ tổ chức vật chất mới, và do đó, cũng có thể
tìm ra những hình thức vận động mới, cho nên có thể và cần phải phát triển, bổ
sung cho sự phân loại nói trên của Ph.Ăngghen, mặc dù những nguyên tắc căn bản
của sự phân loại đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không
thể tách rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức
vận động trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển
hoá lẫn nhau của các hình thức vận động. Tuy nhiên, những kết cấu vật chất đặc
thù bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản nhất định và
khi đó các hình thức vận động khác chỉ tồn tại như những nhân tố, những vệ tinh
của hình thức vận động cơ bản. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên hệ giữa các hình
thức vận động, vừa phải phân biệt sự khác nhau về chất của chúng.
Vận động và đứng im.
Sự vận động không ngừng của vật chất không những không
loại trừ mà trái lại còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự
vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức
biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự
vận động chuyển hoá của vật chất. Như vậy, đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ
xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ
cùng một thời điểm, chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào
đó, chứ không phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động. Hơn nữa, đứng
im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối.
Mặc dù mang tính chất tương đối tạm
thời, nhưng đứng im lại là hình thức “chứng thực” sự tồn tại thực sự của vật
chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất. Không có đứng im
thì không có sự ổn định của sự vật, và con người cũng không bao giờ nhận thức
được chúng. Không có đứng im thì sự vật, hiện tượng cũng không thể thực hiện
được sự vận động chuyển hoá tiếp theo. Vận động và đứng im tạo nên sự thống
nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự phát sinh, tồn tại và phát triển
của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương
đối.
* Không gian và thời gian
Dựa trên những
thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định
tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian và thời gian là
hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó, không gian là hình thức tồn
tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự
tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về
mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức
tồn tại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không
có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá
trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian
tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian
và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của
thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian, về thực chất là một thể
thống nhất không - thời gian. Vật chất có ba chiều không gian và một
chiều thời gian.
Không gian và thời gian của vật chất
nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh chống
lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất
vận động. Quan niệm đó đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử - cụ thể trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
e. Tính thống nhất vật chất của thế giới
* Tồn tại của thế giới là tiền
đề cho sự thống nhất của thế giới
Theo nghĩa chung nhất, tồn tại là phạm trù dùng để chỉ
tính có thực của thế giới xung quanh con người. Khẳng định sự tồn tại là
gạt bỏ những nghi ngờ về tính không thực, sự hư vô, tức là gạt bỏ sự “không tồn
tại”.
Thế giới quanh ta tồn tại, nhưng hình thức tồn tại của
thế giới là hết sức đa dạng. Vì thế, tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự
thống nhất của thế giới. Song, tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn
tại của nó. Sự khác nhau về nguyên tắc giữa quan niệm duy vật và quan niệm duy
tâm không phải ở việc có thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế
giới, mà là ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng, cơ sở của sự thống nhất của thế
giới là ở tính vật chất của nó.
* Thế giới thống nhất ở tính
vật chất
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài
của triết học và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được
thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Chỉ một thế giới
duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách
quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh.
- Mọi bộ phận của
thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều
là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
- Thế giới vật
chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn
và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, biến đổi
không ngừng và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của
nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.
Quan niệm trên đây của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
được cuộc sống hiện thực của con người và toàn bộ sự phát triển của khoa học
xác nhận. Thế giới bao gồm cả tự nhiên và xã
hội về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất. Ph.Ăngghen kết luận:
“Tính thống nhất thực sự của thế giới là tính vật chất của nó, và tính vật chất
này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo
thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự
nhiên”[8].
2. Nguồn
gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất
là sinh lý học - thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã khẳng định rằng, xét về nguồn
gốc tự nhiên, có nhiều nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó hai yếu tố
cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải
của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao nhất là bộ óc người. Óc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là
chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường
và ý thức là không thể tách rời. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất
ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm
thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường. Sinh lý và ý
thức là hai mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh trong bộ óc
người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung
thông tin.
Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ
tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực
phản ánh của thế giới vật chất từ thấp đến cao và cao nhất là trình độ phản ánh
- ý thức. Phản ánh là thuộc tính phổ
biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại
giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một
hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại của chúng. Lịch sử tiến hoá của thế giới
vật chất đồng thời là lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất. Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức
phản ánh của giới tự nhiên vô sinh có kết cấu vật chất đơn giản, đặc trưng
trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh
của giới tự nhiên hữu sinh với kết cấu vật chất phức tạp hơn so với giới tự
nhiên vô sinh. Đó là trình độ trong các cơ thể sống có tính định hướng, lựa
chọn, giúp cho các cơ thể sống thích nghi với môi trường để tồn tại. Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật
có hệ thần kin trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kin
thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện. Phản
ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng
vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng
động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây
là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra
những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động,
sáng tạo này được gọi là ý thức.
Tuy vậy, sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc
tự nhiên mà còn do nguồn gốc xã hội.
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức; trong đó cơ bản nhất và
trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự
nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Lao động cũng là quá trình vừa làm thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm giới
tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động,...
của nó qua những hiện tượng mà con người có thể quan sát được.
Là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động
mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa
các thành viên trong xã hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngôn ngữ
trong bộ óc con người được hình thành và hoàn thiện dần. Và như vậy, “ngôn ngữ
bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích
duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ"[9].
Ngôn ngữ là hệ thống
tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện trở thành "vỏ vật
chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý
thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử. Cùng với lao động, ngôn
ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ
(tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời vừa là công cụ
của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hoá, suy
nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà con người có
thể giao tiếp trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm
phong phú của xã hội đã tích luỹ được qua các thế hệ, thời kỳ lịch sử. Ý thức
là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về
mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích
thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con
người và tâm lý động vật thành ý thức con người. Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng không phải cứ có thế giới khách
quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với thực
tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của
loài người.
b. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng
đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh đã luận giải một
cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung
nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng
luôn có mối liên hệ biện chứng. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần
xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện
thực có tính thực tiễn của con người.
Về bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của
óc người[10].
Như vậy, khi xem xét ý thức về
mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình ảnh" về hiện thực khách
quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Đối
với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn
tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng có sự khác nhau, đối lập nhau về bản
chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức
phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển"
vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó.
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn xã hội. Đây là một đặc tính
căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh tâm
lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ,
thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có
định hướng, có mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, phát
triển gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội. Thông qua thực tiễn, con người
làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám phá không ngừng cả bề rộng và
chiều sâu của các đối tượng phản ánh. Bằng những thao tác của tư duy trừu
tượng đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn chủ động cải
tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra "thiên nhiên thứ hai" in
đậm dấu ấn của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý
thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự
phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan
theo nhu cầu của con người. Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba
mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa
chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là quá trình mang tính hai chiều, có định
hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai
là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất đây là quá trình "sáng tạo lại" hiện thực của ý thức theo nghĩa:
mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất. Ba là, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra
hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua hoạt động
thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất
trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức
cho thấy: ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
c. Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững
tổ chức kết cấu của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri
thức nhiều mặt về cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
* Các lớp cấu
trúc của ý thức.
Khi xem xét ý thức
với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết của
con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí...; trong đó tri thức là toàn bộ
những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái
tạo lại hình ảnh của đối tượng nhận thức dưới các loại ngôn ngữ. Tri thức có
nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội, con người; và có
nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học
v.v..
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự
phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa
người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong những
động lực quan trọng của hoạt động con người.
Niềm tin là sự hoà
quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn, thôi thúc con người
hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Ý chí là những cố gắng, nỗ lực, khả năng
huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi
trở ngại đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành
ý thức và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích
cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Các cấp độ
của ý thức.
Tự ý thức là ý thức
hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát
triển của ý thức. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng
tự phân biệt, tách mình, đối lập mình với thế giới đó để đánh giá mình thông
qua các mối quan hệ.
Tiềm thức là những hoạt
động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực chất, tiềm thức
là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã biến gần như thành
bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới
dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và
nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có
vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt
chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt
động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều
lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không
phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm
soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về bản
năng, thói quen... trong con người thông qua phản xạ vô điều kiện. Vô thức là
những trạng thái tâm lý ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng
xử của con người mà chưa có sự can thiệp của lý trí. Vô thức biểu
hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị
thôi miên, lỡ lời, nói nhịu,... Chức
năng chung của các hiện tượng vô thức là giải toả những ức chế trong hoạt động
thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra
và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần quan trọng trong
việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn
tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, dày vò mặc cảm, "libiđô"...
d) Vấn đề
"trí tuệ nhân tạo".
Ngày nay, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước
phát triển mạnh mẽ, sản xuất ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay
thế lao động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho một phần lao động trí óc của
con người. Chẳng hạn máy tính điện tử, "người máy thông minh",
"trí tuệ nhân tạo". Song, điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý
thức như con người. Ý thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về
bản chất. "Người máy thông minh" thực ra chỉ là một quá trình vật lý.
Hệ thống thao tác của nó đã được con người lập trình phỏng theo một số thao tác
của tư duy con người. Máy móc chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng
tạo ra. Còn con người là một thực thể xã hội năng động được hình thành trong
tiến trình lịch sử tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy
không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng
lực đó chỉ có con người có ý thức mới thực hiện được và qua đó lập trình cho
máy móc thực hiện. Sự phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực chỉ có ở ý thức của
con người với tính cách là một thực thể xã hội, hoạt động cải tạo thế giới
khách quan. Ý thức mang bản chất xã hội. Do vậy, dù máy móc có hiện đại đến đâu
chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người.
3. Mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật siêu hình
Đối với chủ
nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu tượng
hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất,
tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là
bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh
thần sinh ra. Trên thực tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo,
chủ nghĩa ngu dân. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con người
đến với thần học, với "đường sáng thế". Trong thực tiễn, người duy
tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu hóa vai trò nhân tố chủ quan, duy ý
chí, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
Chủ nghĩa duy
vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều
vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn
của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ
đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ "khách quan chủ
nghĩa", thụ động, ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động
thực tiễn.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.
* Vật chất
quyết định ý thức.
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý
thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền
với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là
kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự
nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho
nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính bộ phận của con người - cũng do giới
tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã
chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có
trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính
thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh
ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của
bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới
vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý
thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là
phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết
quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách
khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan
của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thứ ba, vật chất quyết
định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời
trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là
"soi gương", "chụp ảnh" hoặc là "phản ánh tâm lý"
như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật,
hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là
thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát
triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát
triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với
quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức
cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát
triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh
của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời
sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh
điều đó.
* Ý thức có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể
hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người,
do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy
luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới
vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực,
nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật
chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật
chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn,
ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn
tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản
thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó
chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt
động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng
hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có
thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được
đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng
tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên
tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò
của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức
khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn,
nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác
định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ
thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ
quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại
trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học
Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều
kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách
quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại
khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng
hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Phải
nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản
thân sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có
của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa
duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát
huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi
chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức,
coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng
cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn
minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay; coi trọng việc giữ gìn,
rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa
nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp
phát huy tính năng động chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết
đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách
quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
4. Ý nghĩa phương pháp luận trong
công tác Công an
Từ quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đòi hỏi trong công tác Công an cần quán
triệt quan điểm xuất phát từ thực tế
khách quan, cụ thể là:
- Quán triệt
trong nghiên cứu các quy luật hoạt động của các loại tội phạm.
- Nhận thức quy luật đấu tranh chống tội phạm, đảm bảo an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội để góp phần xây dựng và phát
triển đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phải tôn trọng thực tế khách quan trong việc tham mưu
cho các cấp trogn việc ban hành các chủ trương, chính sách cũng như trong việc
xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đưa ra quyết
định tố tụng, thực hiện các phương án, kế hoạch, chiến thuật,...
- Trong bất kỳ hoạt động nào của công tác công an cũng
cần phải khai thác, tận dụng triệt để mọi khả năng khách quan, mọi điều kiện
vật chất cho phép để hoàn thành nhiệm vụ.
- Mọi quyết sách của lực lượng Công an phải xuất phát từ
những điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Đặc biệt về xây dựng lực lượng, tổ chức
cán bộ, thực hiện đối sách với đối tượng, đối tác cụ thể.
- Trong nhận thức và hành động phải lấy nhân tố vật chất
làm nền tảng căn bản; Phải xuất phát từ chính sự vật, hiện tượng như nó vốn có
để kết luận bản chất sự vật, không được đem ấn tượng vốn có để áp đặt cho sự
vật, tránh áp đặt những kết luận chủ quan, dù đó là đối tượng đấu tranh; Chống
thái độ chủ quan, duy ý chí, đặc biệt chống chủ nghĩa cá nhân, kinh nghiệm hẹp
hòi, coi thường, bất chấp quy luật khách quan, hành động theo cảm tính.
Bên cạnh đó, cũng cần quán triệt sâu sắc quan điểm phát huy tính năng động chủ quan trong
công tác Công an, đó là:
- Phải tôn trọng các tri thức khoa học ngành, tránh rơi
vào chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc giáo điều
- Chủ động trong khám phá các quy luật hoạt động của các
thế lực thù địch và tội phạm, nghiên cứu nắm vững tình hình thực tế và dự báo
đúng tình hình để chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, kỹ lưỡng về trí tuệ, tư tưởng, tâm
thế, chủ trương, kế hoạch công tác.
- Chủ động trong
hành động, chuẩn bị tốt các phương tiện, nội dung, chương trình kế hoạch và các
điều kiện cần thiết khác để kiểm soát, xử lý công việc, đem lại kết quả như
mong muốn, nhanh nhạy, sáng tạo.
- Chủ động xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương
tình tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đông đảo quần chúng về âm mưu, phương
thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch chống Việt Nam và của các
loại tội phạm
- Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tích cực học tập, nghiên cứu
tri thức từ kho tàng tri thức của ngành và của xã hội, từng bước nâng cao năng
lực nhận thức và hành động trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm An ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
- Khắc phục bệnh giáo điều, máy móc, dễ rơi vào tình
trạng lúng túng, bị động, bất ngờ.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Biện chứng và phép biện chứng duy vật
a. Biện chứng và các loại
hình biện chứng
Biện
chứng là quan điểm, phương pháp “xem xét những sự vật và
những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau của
chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”[11].
Phương pháp tư duy này cho phép không chỉ nhìn thấy mối liện hệ trong từng sự vật
cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy
toàn thể.
Biện
chứng được chia thành biện chứng khách
quan và biện chứng chủ quan. Biện
chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế giới
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Biện chứng chủ quan
là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của sự thống nhất giữa lôgíc (biện chứng),
phép biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện chứng và biện chứng của
chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Bởi vậy, biện
chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh những
quy luật của tư duy biện chứng.
Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có
mối quan hệ thống nhất với nhau, tạo nên cơ sở phương pháp luận của hoạt động cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy
định biện chứng chủ quan, tức bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại
biện chứng như thế nào thì tư duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải
phản ánh đúng như thế ấy.
Mặc dù biện chứng khách quan
quy định biện chứng chủ quan nhưng biện chứng chủ quan có tính độc lập tương đối
với biện chứng khách quan và được thể hiện trên thực tế: sự vật, hiện tượng được
phản ánh và nhận thức của con người về chúng không hoàn toàn trùng khít nhau, bởi
quá trình tư duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy luật mang tính mục
đích và sáng tạo của con người.
b. Phép biện chứng duy vật và phép biện chứng duy vật
Về định nghĩa phép biện chứng,
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không
đưa ra một định nghĩa thống nhất nào, mà trong các tác phẩm của các ông có nhiều
định nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh,
khi bàn về các quy luật, Ph.Ăngghen định nghĩa “phép biện chứng chẳng qua chỉ
là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của
tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”[12]. Khi chỉ ra nội dung chủ yếu của phép biện chứng,
Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” có
“Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, sự xâm nhập lẫn nhau của
các mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi
mâu thuẫn đó lên tới cực độ, - sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của
phủ định, - phát triển theo hình xoáy trôn ốc”[13].
Trong khi đó, V.I.Lênin định
nghĩa “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn
bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”[14]; khi bàn về các yếu tố của phép biện chứng, ông đưa
ra định nghĩa, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,
nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”[15].
Thông qua việc các ông đưa ra
các định nghĩa ta có thể rút ra một số đặc điểm và vai trò của phép biện chứng
duy vật. Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu
cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận
thức và lôgíc biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng
đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của khoa học tự nhiên trước đó.
Phép biện chứng duy vật đã có
vai trò quan trọng trong việc kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát
đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc
đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn và là một
hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó mới
có thể đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong
thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực
nghiên cứu này sang lĩnh vực khác.
Để trả lời
câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn
tại trong trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận
động, phát triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận
động, phát triển? Phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý,
sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Qua đó thấy được đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng
thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật và sự vận
dung trong công tác công an
a. Hai nguyên lý
của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý là những khởi điểm hay những luận điểm cơ bản nhất có tính chất
tổng quát của một học thuyết chi phối sự vận hành của tất cả các đối tượng thuộc
lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nó. Theo nghĩa đó, nguyên lý triết học là những luận điểm – định đề khái quát nhất được
hình thành nhờ sự quan sát, trải nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy; rồi đến lượt mình chúng lại làm cơ sở, tiền đề cho
những suy lý tiếp theo rút ra những nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương
pháp... phục vụ cho các hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trước đây, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ giữa các sự vật ra
từ ý thức, tinh thần (Hêghen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các mối
liên hệ, còn Béccơly trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng, cảm giác là
nền tảng của mối liên hệ giữa các đối tượng).
Còn quan điểm siêu hình về sự tồn tại
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, được phổ biến rộng rãi trong khoa học tự nhiên rồi
lan truyền sang triết học. Ở Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII, trình độ của khoa học
tự nhiên còn nhiều hạn chế, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc sưu tập tài liệu,
nghiên cứu thế giới trong sự tách rời từng bộ phận riêng lẻ. Quan điểm như vậy
dẫn thế giới quan triết học đến sai lầm là dựng lên ranh giới giả tạo giữa các
sự vật, hiện tượng, đặt đối lập các nghiên cứu khoa học chuyên ngành với nhau.
Vì vậy, quan điểm siêu hình không có khả năng phát hiện ra những quy luật, bản
chất và tính phổ biến của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
Trái lại, quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của
thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau, chứ không hề tách biệt nhau. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng:
“Mối liên hệ” là một
phạm trù triết học dùng để chỉ các mối
ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận
trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa
hai đối tượng nếu sự thay đổi của một
trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Ngược lại, cô lập
(tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này
không ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.
Mọi đối
tượng đều trong thế giới đều ở trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ với nhau. Chúng liên hệ
với nhau ở một số mặt, thuộc tính, và không liên hệ với nhau ở những mặt, thuộc tính khác, trong chúng tồn tại cả những biến đổi khiến các đối tượng khác thay đổi, lẫn
những biến đổi không làm các đối tượng khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập
thống nhất với nhau.
Tính chất của
mối liên hệ phổ biến. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ. Có
mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối
liên hệ giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính trong cùng một sự vật với nhau,…Các mối liên hệ, tác động đó - suy đến
cùng, đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng. Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất kỳ nơi đâu, trong tự
nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có muôn vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị
trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng.
Ngoài tính chất khách quan và
tính chất phổ biến, các mối liên hệ còn có tính đa dạng, phong phú. Có mối liên hệ về mặt
không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng.
Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của
thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và
hiện tượng cụ thể.
Dựa vào vào
tính chất và vai trò của từng mối liên hệ mà phân loại thành các mối liên hệ, có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự
vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất
nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên
hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối
liên hệ thứ yếu... chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Tuy vậy,
việc phân loại này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi vì các mối liên hệ của
các đối tượng là rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi tất cả các mối liên hệ
khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển
cụ thể của chúng.
Trong thế giới, mỗi sự vật, hiện tượng đều
tồn tại trong nhiều mối liên hệ phức tạp,
tác động qua lại với nhau; do vậy, khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ
nguyên tắc toàn diện. Từ nội dung của
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát thành nguyên tắc
toàn diện với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức và thực tiễn
như sau:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét các sự vật, hiện tượng cụ thể,
cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu
tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó; cần phải có cái nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
tất cả các mối liên hệ của sự vật đó.
Thứ hai, khi
nghiên cứu về sự vật, hiện tượng phải nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu
cơ nội tại và rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó, bởi
chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan
với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần
xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường
xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong
không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối
tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Thứ tư, trong quá trình xem xét, đánh giá cần tránh chỉ thấy mặt
này mà không thấy mặt khác, tránh quan điểm phiến diện, một chiều; hoặc chú ý đến
nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên
dễ rơi vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản
hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ
trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
* Nguyên
lý về sự phát triển
Phát triển là quá trình vận
động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất
mới ở trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận
động đều là phát triển, mà chỉ vận động
theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động diễn ra trong
không gian và thời gian, nếu thóat ly chúng thì không thể có phát triển.
Cần phân biệt hai khái niệm gắn với khái niệm phát triển
là tiến hóa và tiến bộ. Tiến hóa là một
dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ, và thường là sự biến đổi hình thức
của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Trong khi đó, khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá
trị tích cực. Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng
xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu.
Khi nghiên cứu về sự phát triển các nhà triết học theo
quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển coi sự phát triển ở đây chỉ là sự
tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà
không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và
nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm ngoài chúng, và tuyệt đối hóa mặt ổn định
của sự vật, hiện tượng.
Quan điểm
biện chứng đối lập với quan điểm siêu hình về sự phát triển ở chỗ, nó coi sự
phát triển là sự vận động đi lên, là
quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật,
hiện tượng mới ra đời thay thế; nó chỉ
ra nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối
lập bên trong sự vật, hiện tượng. Các sự vật,
hiện tượng của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa
không ngừng. Cơ sở của sự vận động đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng.
Vì thế,
V.I.Lênin cho rằng, học thuyết về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là
“hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”. Do vậy, quan điểm này được xây dựng thành khoa học nhằm phát hiện ra các
quy luật, bản chất và tính phổ biến của vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong thế giới.
Đặc điểm chung của sự phát triển là
tính tiến lên theo đường xoáy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp lại sự vật,
hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa
có những bước nhảy vọt... làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp,
có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên.
Về tính chất, phát triển có tính khách quan thể hiện
ở chỗ, nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không
phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn
chủ quan của con người. Phát triển có tính phổ biến: sự phát triển có mặt
ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Phát triển có tính
kế thừa, sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối,
phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng
cũ. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời
từ hư vô, vì vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo
các yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu
cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp
tục phát triển.
Ngoài tính khách quan, tính phổ biến, tính kế thừa, phát
triển còn có tính đa dạng, phong phú; tuy sự phát triển diễn ra
trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại
có quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự phát
triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác
động lên sự phát triển đó...
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển chúng ta thấy được
rằng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải quán triệt nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo
thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát
hiện xu hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại,
mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
Thứ hai, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức,
phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, sớm phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, cái hợp quy luật,
tạo điều kiện cho cái mới phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định
kiến.
Thứ tư, trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết
kế thừa các yếu tố tích cực từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều
kiện mới.
Sự vận dụng
nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
vào hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tuân theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể xuất phát đồng thời từ chúng. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải quán triệt những nội dung sau:
Thứ nhất, cần xem xét
sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng vừa trong điều kiện,
môi trường, hoàn cảnh vừa trong quá trình lịch sử, vừa ở từng giai đoạn cụ thể
của quá trình đó thì mới nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, nguyên tắc
lịch sử không chỉ dừng lại ở chỗ liệt kê những giai đoạn phát triển lịch sử mà
khách thể nhận thức đã trải qua, mà còn đòi hỏi chủ thể nhận thức phải vạch ra
được tính tất yếu và các quy luật chi phối sự thay thế lẫn nhau của các khách
thể nhận thức (do khách thể nhận thức chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác), đặc
biệt là phải tách ra được “cái cơ bản nhất trong chiều hướng phát triển, hay
trong cái dây xích phát triển” của khách thể nhận thức. V.I.Lênin viết “trong mỗi
thời kỳ đặc biệt, cần phải tìm cho ra cái mắt xích đặc biệt mà người ta phải
đem toàn lực ra nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái xích và chuẩn bị để chuyển
vững chắc sang mắt xích kề bên; hơn nữa, trình tự nối tiếp, hình thức, mối liên
hệ của (chúng) và những đặc điểm khác nhau của (chúng) trong ...
những biến cố lịch sử đều không đơn giản...”[16].
Qua đoạn trích này, V.I.Lênin nhắc nhở rằng, nhận thức về một khách thể nào đó,
nhất là trong lĩnh vực xã hội, dù cho nhận thức đó đã là chân lý, cũng không phải
là một cái gì cứng nhắc, luôn luôn đúng trong mọi biến cố của lịch sử.
b. Các cặp
phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Trong quá trình nhận thức con người
thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm bắt và thể hiện thông qua
các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung cùng có ở tất cả chúng. Đó
là vận động, không gian, thời gian, nhân quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu
nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn… Chúng là những đặc trưng của các đối
tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến của vật chất, còn các khái
niệm phản ánh chúng, là những phạm trù triết học.
Như vậy, phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những mô hình tư
tưởng phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện
thực. Chúng giúp con người suy ngẫm những chất liệu cụ thể đã thu nhận được
trong quá trình nhận thức và cải biến hiện thực, chỉ ra những đặc trưng cơ bản
nhất của khách thể.
Phép biện chứng duy vật đã khái quát các mối liên hệ phổ
biến giữa các sự vật, hiện tượng thành các phạm trù cơ bản: cặp cái riêng, cái
chung; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; cặp nguyên nhân và kết
quả; khả năng và hiện thực; cặp nội dung và hình thức.
* Cái
riêng và cái chung
Cái
riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng nhất định. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt,
các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà
không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác. Cái chung là phạm trù triết
học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện
tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng)
khác nữa.
Trước đây, khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng có hai xu hướng đối lập nhau của phái duy thực và phái duy danh.
Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái
riêng. Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực
khách quan. Chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn
tại trong tư duy con người. Cái chung chỉ là tên gọi, danh xưng của các đối tượng
đơn lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải
quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những hạn chế của
cả hai xu hướng đó và phát triển lên một tầm cao mới trong việc lý giải mối
quan hệ cái chung - cái riêng. Cả cái chung lẫn cái đơn nhất đều không tồn tại
độc lập, tự thân, chúng là thuộc tính nên phải gắn với đối tượng xác định. Chỉ
cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện tượng riêng) mới tồn tại độc lập. Cái
chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt của cái
riêng.
Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cái riêng
và liên hệ không tách rời với cái đơn nhất, hệt như cái đơn nhất liên hệ chặt
chẽ với cái chung. “Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất
cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái
chung…”[17].
Cái riêng không vĩnh cửu, nó xuất hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến
thành cái riêng khác, rồi lại thành cái riêng khác nữa… cứ thế mãi vô cùng.
V.I. Lênin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa
mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình).
Nó “chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”[18] và có khả năng chuyển hóa
ở những điều kiện phù hợp thành cái riêng bất kỳ khác.
Mọi cái riêng đều là sự thống nhất các mặt đối lập cái
đơn nhất và cái chung. Thông qua những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại
của mình, nó thể hiện là cái đơn nhất; nhưng thông qua những thuộc tính lặp lại
ở các đối tượng khác – nó lại thể hiện là cái chung. Trong khi là những mặt của
cái riêng, cái đơn nhất và cái chung không đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà
gắn bó hữu cơ với nhau và trong những điều kiện xác định có thể chuyển hóa vào
nhau.
Mối liên
hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn nhau
trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật,
hiện tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sự vật, hiện
tượng khác.
Mối liên
hệ giữa cái chung với cái riêng biểu hiện là mối liên hệ lẫn nhau giữa các thuộc
tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đó được xét
như cái toàn bộ.
Như vậy,
cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ phận bởi bên cạnh cái chung thì bất
cứ đối tượng (cái riêng) nào cũng còn có cái đơn nhất, tức là bên cạnh những mặt
được lặp lại còn có những mặt không lặp lại, những mặt cá biệt; vì vậy, bất cứ
sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào cũng là sự thống nhất giữa các mặt đối lập đó.
Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa là cái
chung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt không lặp lại của mình, sự vật,
hiện tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thông qua các mặt lặp
lại trong các sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
Ý nghĩa
phương pháp luận
Thứ nhất, trong
thực tiễn không thể vận dụng một quy luật nào đó như nhau đối với mọi sự vật,
hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thân cái chung trong
mọi sự vật, hiện tượng không phải giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của
cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó,
trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho
phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.
Thứ hai, nếu bất
kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái đơn nhất, thì không nên
sử dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những cái thích hợp với điều
kiện nhất định, những mặt chung đối với trường hợp đó khi sử dụng một kinh nghiệm
nào đó trong điều kiện khác.
Thứ ba, trong hoạt động
thực tiễn cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người
trở thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
* Nguyên
nhân và kết quả
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự
tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau,
gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết
quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Phép biện
chứng duy vật cho rằng, một nguyên nhân nhất định trong hoàn cảnh nhất định chỉ
có thể gây ra một kết quả nhất định; bởi vậy, nếu các nguyên nhân càng ít khác
nhau bao nhiêu, thì các kết quả do chúng gây ra cũng ít khác nhau bấy nhiêu.
Trong
quá trình vận động, phát triển, nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển
hóa cho nhau. Cái mà ở thời điểm hoặc trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì ở
thời điểm, trong mối quan hệ khác lại là kết quả[19].
Nhưng nếu bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó thì cũng
không có nghĩa là mỗi sự vật, hiện tượng chỉ do một nguyên nhân sinh ra.
Trên thực
tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, do vậy sự phân loại nguyên
nhân thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong,
nguyên nhân bên ngoài... đối với một kết quả vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Ý nghĩa
phương pháp luận.
Thứ nhất, trong thực tiễn, để nhận thức
được sự vật, hiện tượng nhất thiết phải tìm ra nguyên nhân xuất hiện của nó còn
muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng nào đó không cần thiết, thì phải loại bỏ
nguyên nhân sinh ra nó.
Thứ hai, để xác
định phương hướng đúng cho hoạt động thực tiễn, cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng
đó trong mối quan hệ mà nó giữ vai trò là kết quả, cũng như trong mối quan hệ
mà nó giữ vai trò là nguyên nhân, sản sinh ra những kết quả nhất định; khi tìm
nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng cần tìm ở các sự vật, sự kiện, mối liên
hệ đã xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng xuất hiện.
Thứ ba, không
nóng vội khi kết luận về nguyên nhân nào đã sinh ra nó; khi muốn gây ra một sự
vật, hiện tượng có ích trong thực tiễn cần phải lựa chọn phương pháp thích hợp
nhất với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể chứ không nên rập khuôn theo phương pháp
cũ.
* Tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất
nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân cơ
bản bên trong sự vật, hiện tượng quy định và trong điều kiện nhất định phải xảy
ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ mối liên
hệ không bản chất, do nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định nên có thể xuất
hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế
khác.
Tất
nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan trong sự thống nhất hữu cơ. Bên cạnh
đó, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò nhất định trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng; nhưng tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển,
còn ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra nhanh hay chậm.
Trong
quá trình vận động và phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có mối
quan hệ biện chứng với nhau, có khả năng hoán đổi vị trí cho nhau trong những
hoàn cảnh nhất định, thông qua mối liên hệ này thì đó là ngẫu nhiên, còn thông
qua những mối liên hệ khác thì đó là tất nhiên. Ph.Ăngghen viết, “Cái mà người
ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần tuý cấu
thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất
yếu”[20], do vậy
ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối, từ đó cần tránh
quan niệm cứng nhắc về tất nhiên, ngẫu nhiên khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa
phương pháp luận.
Thứ nhất, trong
hoạt động thực tiễn cần dựa vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên vì tất
nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế và nhiệm vụ của khoa học là tìm cho được
mối liên hệ tất nhiên của hiện thực khách quan.
Thứ hai, tất
nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý nên trong hoạt động nhận thức chỉ có thể
chỉ ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải
đi qua.
Thứ ba, không
nên bỏ qua ngẫu nhiên mà phải có những phương án dự phòng trường hợp các sự cố
ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ vì ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển,
thậm chí còn có thể làm cho tiến trình phát triển của sự vật, hiện tượng đột ngột
biến đổi.
Thứ tư, ranh
giới giữa tất nhiên với ngẫu nhiên chỉ là tương đối nên sau khi nhận thức được
các điều kiện có thể tạo ra sự chuyển hóa trên, có thể tạo ra điều kiện thuận lợi
để “biến” ngẫu nhiên phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên và tất nhiên không
phù hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên.
* Nội
dung và hình thức
Nội dung là phạm
trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức
là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện
tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu
thành nội dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên
ngoài, mà còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.
Nội dung và
hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong mối liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau, nhưng nội dung giữ vai trò quyết định. Hình thức xuất hiện
trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại tương đối
độc lập và có ảnh hưởng tới nội dung, gây ra các hệ quả nhất định. Khi hình thức
phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không
phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển đó của nội dung.
Trong quá trình phát triển, cùng một nội dung có thể
thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể biểu hiện
cho một số nội dung khác nhau. Sự vật, hiện tượng phát triển thông qua sự đổi mới
không ngừng của nội dung và sự thay đổi theo chu kỳ của hình thức. Lúc đầu, sự
biến đổi diễn ra trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hình thức, nhưng khi sự biến
đổi đó tiếp tục diễn ra tới giới hạn nhất định, nội dung mới xuất hiện thì hình
thức ban đầu trở nên chật hẹp, kìm hãm sự phát triển của nội dung. Nội dung mới
phá bỏ hình thức cũ và trong vỏ bao bọc của hình thức mới đó, thì nội dung mới
sẽ tiếp tục phát triển.
Ý nghĩa
phương pháp luận.
Thứ nhất, muốn
biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung
của nó. Bởi vì, hình thức của sự vật, hiện tượng do nội dung của nó quyết định,
là kết quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng những thay đổi đó, thì sự
thay đổi hình thức phải dựa vào những thay đổi thích hợp của nội dung quyết định
nó.
Thứ hai, để
thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển nhanh, cần chú ý theo dõi mối quan hệ giữa
nội dung đang phát triển với hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với
hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì, trong những điều kiện nhất định, phải
can thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại sự thay đổi cần thiết về hình thức
để nó trở nên phù hợp với nội dung đã phát triển và bảo đảm cho nội dung phát
triển hơn nữa, không bị hình thức cũ kìm hãm.
Thứ ba, sử dụng
mọi hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến các hình thức
vốn có, lấy hình thức này bổ sung, thay thế cho hình thức cũ để làm cho bất kỳ
hình thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới.
* Bản chất
và hiện tượng
Bản chất là phạm
trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn định bên trong,
quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện tượng
tương ứng của đối tượng.
Hiện tượng là phạm
trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở
bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng.
Bản chất
và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái này không thể
tồn tại thiếu cái kia. Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng phù hợp với
nhau, bởi mỗi đối tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng và sự
thống nhất đó được thể hiện ở chỗ, bản chất tồn tại thông qua hiện tượng còn hiện
tượng phải là sự thể hiện của bản chất. Tuy vậy, “nếu hình thái biểu hiện và bản
chất sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”[21]; trong
những điều kiện nhất định, bản chất thể hiện dưới hình thức đã bị cải biến,
xuyên tạc những yếu tố thực sự của bản chất bằng cách bổ sung vào hay bớt đi từ
bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể và các mối liên hệ ngẫu
nhiên quy định, làm hiện tượng phong phú hay nghèo nàn hơn bản chất. Nhưng bản
chất luôn là cái tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện tượng “động” hơn,
thường xuyên biến đổi. V.I.Lênin viết, “không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm
thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có tính chất ước
lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế”[22]. Bản chất
gắn bó chặt chẽ với cái phổ biến, phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định
sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; còn hiện tượng phản ánh cái cá
biệt, cái đơn nhất. Bản chất cũng là tính quy luật, bởi nói đến bản chất là nói
đến tổng số các quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng.
Ý nghĩa
phương pháp luận.
Thứ nhất, trong
mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà
cần đi sâu vào bên trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thường giấu mình
sau hiện tượng; dựa vào các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, bản chất
là sự thống nhất giữa các mặt, các mối liên hệ tất nhiên vốn có của sự vật, hiện
tượng, bản chất là địa bàn thống lĩnh của các mâu thuẫn biện chứng và chúng được
giải quyết trong quá trình phát triển dẫn đến sự biến đổi của bản chất, tạo ra
sự chuyển hóa của đối tượng từ dạng này sang dạng khác nên các phương pháp đã
được áp dụng vào hoạt động cũ trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương pháp
khác, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng.
* Khả
năng và hiện thực
Khả năng là phạm trù phản ánh
tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái
có thể có, nhưng ngay lúc này chưa có; hiện
thực là phạm trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và
là cơ sở để định hình những khả năng mới.
Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực là những mặt vừa đối lập vừa thống nhất biện chứng với
nhau: chúng loại trừ nhau theo những dấu hiệu căn bản nhất, nhưng không cô lập
hoàn toàn với nhau. Sinh ra từ trong lòng hiện thực và đại diện cho tương lai ở
thời hiện tại, khả năng làm bộc lộ hết tính tương đối của hiện thực. Thông qua
tính tương đối đó mà hiện thực hóa sự liên tục của các quá trình biến đổi. Mọi
đối tượng đều bắt đầu phát triển từ sự chín muồi các tiền đề sinh thành của nó.
Hiện thực bao chứa trong mình số lớn các khả năng, nhưng không phải tất cả đều
được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa từng khả năng đòi hỏi các điều kiện tương ứng,
nhưng rất có thể thiếu điều kiện như thế.
Các dạng khả năng. Hiện
thực thường có nhiều mặt, nhiều xu hướng vận động, nhiều khả năng biến đổi.
Chúng giữ vai trò không ngang nhau trong sự vận hành và phát triển hiện thực.
Có nhiều cơ sở phân loại khả năng. Có thể chia các khả năng thành hai nhóm phụ
thuộc vào việc cái gì quy định chúng: các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên
hay ngẫu nhiên. Những khả năng bị quy định bởi những thuộc tính và mối liên hệ
tất nhiên của đối tượng được gọi là khả năng thực; còn những khả năng bị quy định bởi các thuộc tính và mối liên
hệ ngẫu nhiên, - là khả năng hình thức.
Khả năng thực trong những điều kiện thích hợp tất yếu được thực hiện, còn khả
năng hình thức - có thể được thực hiện cũng có thể không. Phụ thuộc vào mối
liên hệ với những điều kiện này như thế nào, khả năng được chia ra thành khả
năng cụ thể và khả năng trừu tượng. Loại thứ nhất là những khả
năng mà để thực hiện chúng hiện đã có đủ điều kiện, loại thứ hai là những khả
năng mà ở thời hiện tại còn chưa có những điều kiện thực hiện chúng, nhưng điều
kiện có thể xuất hiện khi đối tượng đạt tới một trình độ phát triển nhất định.
Ý nghĩa
phương pháp luận.
Thứ nhất, trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể
dựa vào khả năng do hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới
sự chuyển hóa thành hiện thực. Tuy nhiên, vì khả năng biểu hiện khuynh hướng
phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai nên khi đề ra kế hoạch, phải
tính đến mọi khả năng để kế hoạch đó sát với thực tiễn. Nhiệm vụ của hoạt động
nhận thức là phải xác định được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng và
tìm ra khả năng ấy trong chính bản thân nó, bởi khả năng nảy sinh vừa do sự tác
động qua lại giữa các mặt bên trong, vừa do sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện
tượng với hoàn cảnh bên ngoài.
Thứ hai, phát
triển là quá trình mà trong đó khả năng chuyển hóa thành hiện thực, còn hiện thực
này trong quá trình phát triển của mình lại sinh ra các khả năng mới, các khả
năng mới ấy trong điều kiện thích hợp lại chuyển hóa thành hiện thực, tạo thành
quá trình vô tận; do vậy, sau khi đã xác định được các khả năng phát triển của
sự vật, hiện tượng, thì mới nên tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng.
Thứ ba, cần
tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp có
thể xảy ra do trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa nhiều khả năng khác
nhau.
Thứ tư, trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải lựa chọn khả năng trong số hiện
có, trước hết là chú ý đến khả năng gần, khả năng tất nhiên vì chúng dễ chuyển
hóa thành hiện thực hơn.
Thứ năm, cần
tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường
vai trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.
c. Các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu
giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có các điều kiện phù hợp. “Quy luật khách quan” vốn thuộc biện chứng của sự tồn tại
khách quan khác với “quy luật khoa học” vốn là sự khái quát những liên hệ và
quy luật khách quan rồi được trình bày trong các lý thuyết khoa học bằng những
phán đoán phổ biến. Do đó, về nguyên tắc, các quy luật khoa học chỉ gần đúng với
các quy luật khách quan. Sự thừa nhận tính khách quan của các quy luật tự nhiên
và xã hội là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đối với sự phát triển tri
thức khoa học.
* Quy luật từ những thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về
phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội
và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động,
phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật có cơ sở tất yếu từ những sự
thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật
lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên các phương diện khác
nhau,... Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong
mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Nội
dung quy luật được vạch ra
thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.
Chất
là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng
làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
Đặc
điểm cơ bản của chất: thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng;
nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn
chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển
qua nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy, mỗi
sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
Chất và sự vật có mối quan hệ
chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự
vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được
biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào
cũng biểu hiện chất của sự vật.
Chất của sự vật không những
được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các
sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác.
Sự thay đổi về chất của sự vật
phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương
thức liên kết giữa các yếu tố ấy.
Lượng
là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy
mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng
số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn
hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay
chậm, màu sắc đậm hay nhạt...
Đặc
điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ theo từng mối
quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; cái là lượng trong mối quan hệ
này, lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.
Sự phân biệt giữa lượng và chất có tính chất tương đối.
Trong mối quan hệ này một tính quy định là lượng, nhưng trong mối quan hệ khác
tính quy định đó lại đóng vai trò là chất.
Các
khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy, xuất hiện trong quá trình tác động lẫn nhau
giữa chất và lượng. Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất
và quy định lẫn nhau giữa chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện
tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật,
hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Điểm giới
hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của
sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu
xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và
sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự
thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mới và điểm nút mới. Bước
nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật,
hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản
trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng,
là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện tượng.
Sự
vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện; trong sự vật, hiện
tượng mới đó lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ
như thế, sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về
lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên một đường dài thay thế nhau vô tận sự
vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật lượng đổi - chất đổi
còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đã khẳng định mình, nó tạo
ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng. Bản thân chất
mới được tạo thành cũng thúc đẩy sự thay đổi tương ứng của lượng để cho lượng
này trở nên phù hợp hơn với chất mới đó.
Như
vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những
thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt
tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với
chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục
biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Quá trình tác động
qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tùy vào sự vật,
hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn
ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có
bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố... của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy
cục bộ chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng.
Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều
là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất
và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả
các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng
cách tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất
cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.
Ý
nghĩa phương pháp luận
Thứ
nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
biết tích luỹ về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như
không được bảo thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình
thức tất yếu của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự
thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi
đến giới hạn, tức là đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực
hiện quá trình tích luỹ về lượng.
Thứ
hai, cần tránh tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ
không chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự phát triển của sự
vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; cũng cần tránh tư tưởng bảo thủ
thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là
những thay đổi về lượng.
Thứ
ba, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định
quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập
khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện
đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện
cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ
tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về
chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật,
hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào
phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
* Quy luật thống nhất và đấu
tranh các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu
tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng
duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng
duy vật - vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển. Theo
V.I.Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống
nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,...”[23].
Nội
dung của quy luật này cũng được vạch mở thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm
trù liên quan.
Trong
phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự
liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại
trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.???
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống
nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của
sự vật, hiện tượng. Thống nhất giữa
các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể
hiện ở, thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm
tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia; thứ hai,
các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa
cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối
lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu
tố giống nhau. Do sự đồng nhất này mà trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất
hiện và tác động ở điều kiện phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa vào nhau. Đồng
nhất không tách rời với sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện tượng
vừa là bản thân nó, vừa là sự vật, hiện tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất
đã bao hàm sự khác nhau, đối lập.
Đấu
tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác
động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó
cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một
mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng có
tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại
trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng; còn đấu tranh có
tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến
sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự
thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật, hiện tượng. Về vấn đề
này C.Mác viết: "Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính
là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và
sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”[24].
Còn V.I.Lênin, chú ý nhiều hơn đến tính tuyệt đối của "đấu tranh” đã viết:
"Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh” giữa các mặt đối lập”[25].
Mâu
thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng đa dạng. Sự
đa dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập, vào điều kiện mà trong
đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai, vào trình độ tổ chức của
sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm
riêng và có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; căn cứ vào vai
trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong
mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu; căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng,
có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài; căn cứ vào tính chất
của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các giai cấp ở một
giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng.
Nói về vai trò của mâu thuẫn
đối với sự vận động và phát triển, Ph.Ăngghen nhấn mạnh, nguyên nhân chính cũng
là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng là sự tác động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn nhau giữa chúng
và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động dẫn đến vận động là
tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng (bên ngoài) và sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng (bên trong); nhưng chỉ
có sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự vật, hiện
tượng phát triển.
Mối
quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực
của sự vận động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng là tự thân.
Ý
nghĩa phương pháp luận.
Thứ
nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật,
hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách
quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập
trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động
nhận thức và thực tiễn.
Thứ
hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá
trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và
mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết
phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu
thuẫn đó.
Thứ
ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng
đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay
bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi
hay chưa.
* Quy luật phủ định của phủ
định
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh
hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật
thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ
"phủ định của phủ định".
Phủ
định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề,
tạo điều kiện cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng
mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự
phát triển của sự vật, hiện tượng; từ đó dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
Phủ
định biện chứng có tính khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do mâu
thuẫn bên trong nó gây ra), tính kế thừa (loại bỏ các yếu tố không phù hợp và cải
tạo các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện tượng
mới). Phủ định biện chứng còn có tính phổ biến (diễn ra trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy); tính đa dạng, phong phú của phủ định biện chứng thể
hiện ở nội dung, hình thức của nó.
Đặc
điểm cơ bản của phủ định biện chứng là sau một số (ít nhất là hai) lần phủ định,
sự vật, hiện tượng phát triển có tính chu kỳ theo đường xoáy ốc mà thực chất của
sự phát triển đó là sự biến đổi, trong đó giai đoạn sau vẫn bảo tồn những gì
tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. Với đặc điểm này, phủ định biện chứng
không chỉ khắc phục hạn chế của sự vật, hiện tượng cũ; mà còn gắn chúng với sự
vật, hiện tượng mới; gắn sự vật, hiện tượng được khẳng định với sự vật, hiện tượng
bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và
sự phát triển.
Kế
thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ việc sự vật, hiện tượng
mới ra đời vẫn giữ lại có chọn lọc và cải tạo yếu tố còn thích hợp để chuyển sang
chúng; loại bỏ các yếu tố không còn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ đang
gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
Đặc
điểm của kế thừa biện chứng là duy trì các yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng
bị phủ định dưới dạng vượt bỏ, các yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải tạo, biến đổi
để phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự
quy định bởi vai trò của yếu tố phù hợp được kế thừa; do vậy, việc giữ lại yếu
tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định làm cho sự vật, hiện tượng mới
có chất giàu có hơn, phát triển cao hơn, tiến bộ hơn.
Kế
thừa biện chứng đối lập với kế thừa siêu hình - là việc đối tượng giữ lại
nguyên si những gì bản thân nó đã có ở giai đoạn phát triển trước, không tự
mình rũ bỏ những yếu tố đã tỏ ra lạc hậu hết thời, không còn phù hợp, thậm chí
còn ngáng đường, ngăn cản sự phát triển tiếp theo của chính nó, của đối tượng mới.
Kế
thừa biện chứng đảm bảo "sợi dây" liên hệ thông suốt bền chặt giữa đối
tượng mới với đối tượng cũ, giữa nó với quá khứ của chính nó. Trong trường hợp
này những yếu tố còn tỏ ra phù hợp với đối tượng mới từ đối tượng cũ nhưng vẫn
cần phải chịu sự cải tạo mạnh mẽ cho phù hợp với bản chất mà đối tượng mới đang
tạo lập và những yếu tố mới hẳn mà đối tượng mới đang ra sức xây dựng, bổ sung,
của bước chuyển, của sự quá độ từ cũ sang mới. Trong quá trình đó chứa đựng cả
những yếu tố cũ, lỗi thời đang dần mất đi, và những yếu tố mới đang xuất hiện,
đang trưởng thành và sẽ dần được khẳng định.
Do
vậy, đường xoáy ốc là khái niệm dùng để chỉ sự vận động của những nội
dung mang tính kế thừa có trong sự vật, hiện tượng mới nên không thể đi theo đường
thẳng, mà diễn ra theo đường tròn không nằm trên một mặt phẳng tựa như đường
xoáy trôn ốc. Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng ở tính kế thừa qua khâu trung gian, tính lặp lại,
nhưng không quay lại và tính tiến lên của sự phát triển. V.I.Lênin lưu ý chúng
ta: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một
hình thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ định”); sự phát
triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”[26].
Như vậy, sự phát triển dường như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc
điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định. Mỗi vòng mới của đường
xoáy ốc thể hiện trình độ phát triển cao hơn và sự nối tiếp nhau các vòng của
đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
Quy
luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do mâu
thuẫn bên trong của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu
tranh và chuyển hóa giữa những mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng.
Phủ
định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng
đối lập với nó, phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới
mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ, nhưng cũng đã mang
không ít nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức,
sự vật, hiện tượng mới (ra đời do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật,
hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào), nhưng về nội dung, không phải
trở lại chúng giống y như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ
sở cao hơn. Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển
vì chỉ thông qua phủ định của phủ định mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới, và như vậy, phủ định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ
phát triển, đồng thời lại tạo ra điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp
theo. Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển có thể nhiều hơn
hai, tuỳ theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải
qua hai lần mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, hoàn thành được một
chu kỳ phát triển.
Mỗi
lần phủ định biện chứng thực hiện xong sẽ mang thêm những yếu tố tích cực mới;
do vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng
phát triển không ngừng của sự vật, hiện tượng. Do có sự kế thừa nên phủ định biện
chứng không phải là phủ định sạch trơn, không loại bỏ tất cả các yếu tố của sự
vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và gìn giữ, lặp
lại một số yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn lọc,
cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ
đạo tiến lên như đường xoáy ốc.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Thứ
nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận
động của sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của
sự phát triển; sau khi đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được
kết quả cuối cùng của sự phát triển.
Thứ
hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự
phát triển, đó là quá trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng
tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi.
Thứ
ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật,
hiện tượng mới, ra đời phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao
về chất trong sự phát triển. Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng
mới diễn ra tự phát; nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới đó gắn với việc nhận
thức và hành động có ý thức của con người.
Thứ
tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng
cũ, nhưng trong thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần
ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết
kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ
làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
d. Vận dụng trong công tác công an
Trong
các hoạt động của công tác công an cần vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của
triết học Mác - Lênin trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của Ngành, trước hết
là quán triệt tốt quan điểm toàn diện:
Mọi
cán bộ chiến sĩ công an cần phải nhận thức được công tác công an là công tác
liên quan tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội, nhiều thành phần trong xã hội;
liên quan đến việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật
của Đảng và Nhà nước.
Khi
triển khai các hoạt động của công tác công an cần phải huy động sức mạnh của cả
hệ thống chính trị, các Bộ, Ban, Ngành và chú ý tới việc huy động sức mạnh của
nhân dân,cũng như phối hợp sử dụng nhiều phương tiện, biện pháp nghiệp vụ khác
nhau và kết hợp nhiều lực lượng tham gia để xây dựng thế trận an ninh nhân dân
kết hợp với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, hiệu quả.
Trong
việc nhìn nhận, đánh giá tình hình, vụ việc, đối tượng cụ thể,...cần đặt vấn đề,
đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu trong mối liên hệ giữa các yếu tố, mối quan hệ
bên trong với các yếu tố, mối liên hệ bên ngoài để thấy được bản chất toàn diện
của đối tượng nghiên cứu.
Đối
với các đối tượng, cơ quan công an cần loại bỏ cách nhìn phiến diện một chiều,
áp đặt để có kết luận đúng người, đúng bản chất, tránh kết luận nóng vội dẫn tới
việc oan sai, hoặc gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Mỗi
cán bộ công an cần phải thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chính
trị, pháp luật, nghiệp vụ để có cách nhìn bao quát sự vật, thấy rõ bản chất,
quy luật vận động của các loại tội phạm, thấy rõ sự thay đổi âm mưu, phương thức,
thủ đoạn phạm tội trên cơ sở đó có những quyết định, hành động phù hợp.
Chống
tác phong qua loa, đại khái, cục bộ cá nhân chủ nghĩa trong việc đánh giá, nhận
xét về con người cũng như trong hoạch định các phương án, kế hoạch đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Bên
cạnh việc tôn trọng quan điểm toàn diện cũng cần quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể:
Khi
xem xét, đánh giá các vụ việc, con người, đối tượng, phải đặt trong điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể cả về mặt khách quan lẫn chủ quan
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
Xây
dựng và triển khai các phương án, kế hoạch nghiệp vụ hoặc đối sách với đối tượng
phải dựa trên những căn cứ khoa học, chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
từng địa bàn, từng hệ đối tượng và từng đối tượng cụ thể; đặc biệt, phải căn cứ
vào những yêu cầu chính trị, nghiệp vụ và pháp luật của Đảng, Nhà nước và của
Ngành trong từng giai đoạn, từng thời điểm lịch sử cụ thể.
Không
ngừng đổi mới, bổ sung hoàn thiện hệ thống lý luận của ngành và bổ sung các
thao tác nghiệp vụ cần thiết khi tình hình thay đổi.
Vận
dụng nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi các mặt công tác của lực lượng Công an
cần phải biết vận dụng quan điểm phát triển.
Quan điểm này yêu cầu:
Phản
ánh đúng đắn tình hình an ninh trật tự trong trạng thái tồn tại của sự vật, hiện
tượng là luôn vận động, phát triển, tìm ra đúng bản chất và quy luật
Trong
xây dựng, hoàn thiện và phát triển lý luận cũng như trong phòng ngừa, phát hiện
và đấu tranh với tội phạm phải khắc phục
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, coi sự vật hiện tượng "nằm im, không
vận động".
Khi
xem xét sự vật, hiện tượng liên quan tới an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội cần đặt nó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng vận động tiến lên để có
cách đánh giá đúng đắn, khoa học, tránh chủ quan, áp đặt.
Quan
điểm phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải sớm tìm
tòi, phát hiện những nhân tố mới, những phương tiện biện pháp mới, những chiến
thuật mới để nhanh chóng ứng dụng trong bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật
tự an toàn xã hội.
Tích
cực nghiên cứu những vấn đề, những xu hướng mới về tình hình, khả năng phát
sinh, trát triển của tội phạm cùng âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của chúng,
đưa ra các dự báo, cảnh báo và có những phương án, kế hoạch phòng chống phù hợp.
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật
biện chứng
Thứ nhất, khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan và
không phụ thuộc vào ý thức của con người. Đây
là nguyên tắc cơ bản nhất của lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng cho rằng thế giới vật chất tồn tại độc lập, khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức của con người, dù con người có thể chưa biết đến sự tồn tại
của chúng.
Thứ hai, thừa nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, toàn bộ cảm
giác của chúng ta đều là sự phản ánh, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Nhưng đó tuyệt đối không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan một
cách thụ động, cứng nhắc.
Thứ ba, lấy
thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, thực tiễn
là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng, sai của những hình ảnh được phản ánh trong
cảm giác, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Từ đó, Lênin khẳng định:
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của
lý luận về nhận thức”[27].
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
Chủ nghĩa
duy vật biện chứng thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và đó chính là
đối tượng của nhận thức. Thế giới hiện thực khách quan chính là nguồn gốc của
nhận thức chứ không phải ý thức của con người đã sinh ra thế giới. Trên cơ sở
đó, Triết học Mác – Lênin cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới.
Nhận thức là một quá trình phản ánh sống động hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người; là quá trình bộ óc con người kiến tạo
nên tri thức về thế giới khách quan được phản ánh: “Tri giác và biểu tượng của
chúng ta là hình ảnh của các sự vật đó”[28]; Điều này một mặt đã chống
lại quan điểm duy tâm về nhận thức, mặt khác khẳng định lập trường duy vật về
quá trình nhận thức. Khẳng định nhận thức là một quá trình quanh co, vừa nảy
sinh và đồng thời giải quyết các mâu thuẫn chứ không chỉ là sự sao chụp đơn giản,
máy móc khô cứng.
Nhận thức là một quá trình vận động liên tục và mang tính
biện chứng, đó là quá trình
đi từ chưa biết đến biết, từ biết một cách mơ hồ đến sự thấu hiểu tường tận.
Quá trình đó diễn ra nhiều lần, có sự khắc phục, bổ sung, hoàn thiện và phát
triển.
Quá trình nhận thức của con người sẽ
thường xuyên nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức
lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức kinh nghiệm hình thành từ các quan sát trực tiếp thế giới
khách quan hoặc các thực nghiệm khoa học. Từ đó sẽ sinh ra tri thức kinh nghiệm
thông thường hoặc các tri thức kinh nghiệm khoa học. Mặc dù còn có nhiều hạn chế
nhất định như đó mới chỉ là nhận thức bề ngoài, chưa đầy đủ về sự vật hiện tượng,
nhưng tri thức kinh nghiệm phần nào đó có vai trò quan trọng đối với đời sống của
con người. Nhận thức lý luận, là quá
trình nhận thức một cách gián tiếp thông qua
các hình thức tư duy trừu tượng để khái quát nên các quy luật, bản chất, tính tất
yếu của sự vật hiện tượng. Nhận thức
thông thường, được hình thành một cách trực tiếp, tự phát thông qua đời sống
sinh hoạt thường nhật của con người. Nhận
thức khoa học, trái lại được hình thành thông qua quá trình hoạt động tích
cực, chủ động, sáng tạo và tự giác của chủ thể để phản ánh những vấn đề mang
tính quy luật, tồn tại trong mối liên hệ của đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức là quá trình từ hoạt động thực tiễn của con
người mà nảy sinh mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể của nhận thức.
Con người chính
là chủ thể của quá trình nhận thức,
con người ở đây không chỉ là những cá nhân người mà còn là những tập đoàn người
cụ thể, tuy nhiên chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử, có
tính chất lịch sử - xã hội nhất định. Khách
thể nhận thức không phải là toàn bộ đời sống hiện thực khách quan, mà chỉ
là một bộ phận, một lĩnh vực của hiện thực khách quan.
Khách thể nhận thức không chỉ là thế giới vật chất mà thậm chí còn là tư duy, tâm
lý, tư
tưởng, tinh thần, tình cảm của con người. Khách thể nhận thức rộng hơn so với đối
tượng nhận thức, đồng thời cũng chịu tác động
của điều kiện lịch sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn của con người
là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý. Từ đó, có thể nói, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực,
chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể.
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a.
Phạm trù thực tiễn
Theo tiếng Hy Lạp thực tiễn là “practica”, dịch nghĩa
là hoạt động tích cực. Triết học duy tâm cho rằng thực tiễn là: hoạt động của
nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói chung. Triết học
tôn giáo thì cho rằng thực tiễn là: hoạt động kiến tạo ra vũ trụ của đấng siêu
nhiên. Các nhà triết học duy vật trước Mác đã đưa ra nhiều quan điểm có ý nghĩa
về về nhận thức, nhưng vẫn chưa có ai nhận
thức đúng được bản chất và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Trên cơ sở
khắc phục hạn chế của các quan điểm trước đó, triết học Mác – Lênin cho rằng, thực
tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Từ nội dung quan niệm về thực
tiễn, ta thấy thực tiễn có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thực tiễn là những
hoạt động vật chất – cảm tính, chứ không phải toàn bộ hoạt động nói chung của
con người. Thực tiễn chính là những hoạt động vật chất mà con người có thể cảm
giác được. Từ đó, chỉ con người mới có thể cải tạo được thể giới khách quan để
phục vụ cho nhu cầu sinh tồn của mình.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con người. Do đó,
hoạt động thực tiễn luôn bị chi phối, tác động bởi những điều kiện lịch sử xã hội
cụ thể.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục
đích nhằm cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội để phục vụ cho đời sống của con
người. Như vậy, thực tiễn là hoạt động mang tính người rõ rệt, khác biệt hoàn
toàn với hoạt động đơn thuần mang tính bản năng của động vật trong quá trình
sinh sống của nó.
Thực tiễn tồn tại ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản
xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Sản xuất vật chất
là hoạt động thực tiễn xuất hiện đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất. Bởi từ thủa
sơ khai, con người đã buộc phải tiến hành hoạt động sản xuất vật chất cơ bản để
duy trì sự sống. Sản xuất vật chất là phương thức tồn tại cơ bản, đầu tiên của
con người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thông qua hoạt động
này, con người tách ra khỏi con thú và phát triển thành loài người văn minh
ngày nay. Hoạt động sản xuất vật chất là tiền đề, cơ sở cho các hình thức thực
tiễn khác và toàn bộ hoạt động sống của con người.
Hoạt động chính trị
- xã hội là hoạt động của các cộng đồng người nhằm
cải biến những quan hệ chính trị - xã hội, để cải tạo xã hội, thúc đẩy xã hội
phát triển.
Thực nghiệm khoa học
là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực
tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do chính con người tạo ra. Từ đó vận
dụng các thành quả của quá trình nghiên cứu nhằm cải tạo đời sống xã hội để phục
vụ cho đời sống của con người. Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất thì hoạt động thực nghiệm khoa học càng thể hiện được
vai trò của mình.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác
động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, sản xuất vật chất có vai trò quan
trọng và có khả năng quyết định tới hai hình thức thực tiễn còn lại. Đồng thời
hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học có sự tác động
trở lại đối với hoạt động sản xuất vật chất.
Như vậy, thực tiễn một mặt là cầu nối giữa con người với
tự nhiên, xã hội, mặt khác thực tiễn cũng tách con người ra khỏi thế giới tự
nhiên, thông qua hoạt động thực tiễn con người từ cải tạo tiến tới làm chủ thế
giới tự nhiên.
b.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
Con người sử dụng hoạt động thực tiễn để tác động vào
thế giới khách quan, buộc chúng bộc lộ các thuộc tính, quy luật cơ bản nhất để
con người nhận thức. Thực tiễn cung cấp toàn bộ tư liệu, vật liệu cho nhân thức
của con người, các ngành khoa học, lý luận, tri thức của con người cũng được
sinh ra từ đó.
Thông qua các nhu cầu được đặt ra từ hoạt động thực tiễn,
các khí quan vật chất nhằm hỗ trợ cho con người trong quá trình nhận thức được
chế tác, giúp cho quá trình nhận thức của con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Có thể khẳng định, thực tiễn không chỉ là là nền tảng, cơ sở để nhận thức của
con người nảy sinh, tồn tại, phát triển, mà còn là động lực thúc đẩy nhận thức
phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Ngay từ thủa sơ khai, nhận thức của con người đã bị
quy định bởi những nhu cầu của đặt ra thực tiễn. Bởi lẽ thực tiễn gắn liền với
tất cả hoạt động cơ bản, đầu tiên đảm bảo sinh tồn của con người. Điều đó buộc
con người phải nhận thức được thế giới xung quanh, sau đó quay trở lại dùng
chính nhận thức đó để cải tạo thế giới, phục vụ cho chính nhu cầu của mình.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận
thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan.
Không thể lấy sự tán thành, tín nhiệm của số đông để kiểm tra tri thức, càng
không thể lấy tri thức để xác thực tính đúng sai của chính nó. Mà phải thông
qua thực tiễn để chứng minh và kiểm nghiệm chân lý. Bởi chỉ thông qua thực tiễn
mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, mô hình hóa
được các giả thuyết, luận điểm qua đó mới có thể nhìn thấy được tính đúng sai của
chân lý.
Có
nhiều hình thức thực tiễn khác nhau, theo đó cũng tồn tại nhiều hình thức kiểm
tra chân lý. Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý vừa có tính
tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt
đối của thực tiễn trong kiểm tra chân lý ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Tính
tương đối của thực tiễn trong kiểm tra chân lý ở chỗ, thực tiễn có một quá
trình vận động phát triển lâu dài và liên tục. Vì thế “không bao giờ có thể xác
nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người,
dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”[29]. Do đó, muốn kiểm nghiệm
chân lý phải đặt trong một thực tiễn trong không gian rộng lớn, thời gian lâu
dài thì mới có thể nhìn rõ được tính đúng sai của tri thức.
Từ
việc nhìn nhận vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, ta thấy trong đời sống
khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng cần phải gắn liền với nhu cầu của
thực tiễn, phải tôn trọng thực tiễn, nhằm tránh bệnh giáo điều, kinh viện trong
quá trình nhận thức.
4. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức chân lý
Các
triết gia từ trước đến nay đều khẳng định quá trình nhận thức bao gồm nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy nhiên, khi xác định vị trí, vai trò, sự tác
động lẫn nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính lại có sự khác nhau
nhất định. Theo V.I.Lênin con đường
biện chứng của quá trình nhận thức được thể hiện như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”[30].
Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn
của quá trình nhận thức có những
thuộc tính khác nhau, kế tiếp nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức
thống nhất của con người về thế giới. Thực tiễn vừa là
cơ sở, động lực, mục đích của quá trình nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra
tính đúng sai chân lý. Thực tiễn vừa là điểm kết thúc lại cũng là điểm bắt đầu
của quá trình nhận thức, theo đó sự nhận thức của con người là một quá trình
không có hồi kết.
a.
Nhận thức cảm tính (Trực quan sinh động)
Đây
là giai đoạn bắt đầu của quá trình nhận thức, xuất phát từ thực tiễn. Giai đoạn
này, nhận thức của con người phản ánh trực tiếp khách thể bằng trực quan, diễn
ra dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là
hình thức giản đơn nhất của quá trình nhận thức.
Tri
giác là một hình thức nhận
thức của giai đoạn trực quan sinh động. Tri giác là sự tổng hợp của nhiều cảm
giác trong quá trình phản ánh sự vật hiện tượng. Do đó, tri giác mang lại hình ảnh
về sự vật hiện tượng đầy đủ hơn so với cảm giác.
Biểu tượng là
hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính. Nếu như cảm giác và tri giác chỉ dừng
lại ở sự phản ánh trực quan thì biểu tượng là khi hình ảnh của sự vật hiện tượng
được tái hiện trong óc người nhờ trí nhớ, khi sự vật hiện tượng không hề tác động
trực tiếp vào giác quan của con người. Tuy nhiên, biểu tượng dù đã hoàn chỉnh
hơn nhưng vẫn là hình ảnh cảm tính về sự vật, do đó chưa phải là hình thức của
nhận thức lý tính. Nó được xem là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính
lên nhận thức lý tính.
Ở giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận
thức vẫn chưa đem lại những hiểu biết sâu sắc, khái quát trong tính chỉnh thể của
sự vật hiện tượng.
b. Nhận thức
lý tính (Tư duy trừu tượng)
Bắt đầu từ trực quan sinh
động, đến tư duy trừu tượng, con người phản ánh sự vật một cách gián tiếp, đầy
đủ hơn, khái quát hơn dưới các hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái
niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát, gián tiếp
một hoặc một số thuộc tính mang tính bản chất của một nhóm sự vật, hiện tượng
được thể hiện bằng một từ hay một cụm từ. Thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt
động nhận thức của con người. Là kết
quả của quá trình tổng hợp, khái quát biện chứng những tư liệu thu thập được được trong hoạt động thực tiễn.
Cùng với sự năng động, biến đổi thường xuyên của hoạt động thực tiễn nên các
khái niệm để phản ánh đúng thực tiễn cũng phải luôn vận động, biến đổi, phát
triển cho phù hợp.
Phán đoán là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối liên hệ
giữa các sự vật hiện tượng của thế giới trong ý thức con người. Phản ánh là một
hình thức của tư duy trừu tượng, thông qua việc liên kết các khái niệm để khẳng
định hoặc phủ định một thuộc tính hay một mối liên hệ nào đó của sự vật. Phán
đoán được biểu hiện bằng ngôn ngữ thành một mệnh đề, bao gồm lượng từ, chủ từ,
hệ từ và vị từ, trong đó hệ từ đóng vai trò quan trọng nhất vì nó biểu hiện mối
quan hệ của sự vật được phản ánh. Phán đoán được phân chia thành ba loại cơ bản:
phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến.
Suy lý là hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó các phán đoán đã liên kết
với nhau theo quy tắc: phán đoán cuối cùng (kết luận) được suy ra từ những phán
đoán đã biết làm tiền đề. Có hai loại suy luận chính là: quy nạp và diễn dịch.
Suy lý là phương thức quan trọng để tư duy của con người đi từ cái đã biết đến
cái chưa biết một cách gián tiếp, rút ngắn thời gian trong việc phát hiện tri
thức mới.
Như vậy, nhận thức lý tính khác với nhận thức cảm tính ở
chỗ, nó đã phản ánh, khái quát, trừu tượng, gián tiếp sự vật, hiện tượng trong
tính tất yếu, chỉnh thể toàn diện. Do đó, nhận thức
lý tính phản ánh sự vật hiện tượng sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn so với nhận
thức cảm tính.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn
khác nhau về chất nhưng lại có sự thống nhất chặt chẽ với nhau. Nhận thức cảm
tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, ngược lại nhờ có nhận thức lý tính mà con
người mới đi sâu được vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong thực tiễn cần
tránh cường điệu hóa, tuyệt đối hóa vai trò của cảm tính, hạ thấp và phủ nhận
vai trò của lý tĩnh và ngược lại. Bởi quá đề cao nhận thức cảm tính sẽ rơi vào
duy cảm, quá đề cao nhận thức lý tính thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy lý cực đoan.
Sự thống nhất giữa trực quan sinh
động, tư duy trừu tượng và thực tiễn.
Từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là một vòng khâu của quá
trình nhận thức. Trong đó thực tiễn vừa là nơi bắt đầu cũng là khâu kết thúc của
quá trình nhận thức, hơn thế còn có vai trò kiểm tra chân lý. Các vòng khâu đó
diễn ra liên tục, tiếp nối nhau, đảm bảo cho quá trình nhận thức ngày càng hoàn
thiện, sâu sắc hơn. Đây cũng là quá trình giải quyết những mâu thuẫn của quá
trình nhận thức, đó là mâu thuẩn giữa biết và chưa biết, biết ít và biết nhiều,
giữa đúng và sai… Cứ thế, khi mâu thuẫn được giải quyết thì nhận thức của con
người càng tiệm cận hơn với chân lý.
* Quan niệm về chân lý
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, chân lý là tri thức
phù hợp với hiện thực khách quan mà con người phản ánh và được thực tiễn kiểm
nghiệm. Vì sự vật luôn tồn tại trong quá trình vận
động, nên chân lý là một quá trình, do đó nhận thức chân lý cũng phải là một quá trình.
* Các tính chất của chân lý
Tính khách quan.
Chân lý là quá trình phản
ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, chân lý bao
giờ cũng mang tính khách quan. Về
nội dung này V.I.Lênin nhấn mạnh:
“Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý không phụ thuộc vào con người và
loài người”[31], “là người duy vật, có nghĩa là thừa nhận chân lý khách
quan”[32].
Tính tương đối và tính tuyệt đối.
Tính tương đối thể hiện những tri thức của chân lý có thể đúng
nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, mà chỉ mới phản ánh được một mặt, một khía cạnh của
hiện thực khách quan trong những điều kiện thời gian, không gian xác định. Tính
tuyệt đối của chân lý thể hiện
ở chỗ những tri thức của chân lý đã phản ánh đầy đủ, toàn diện hiện thực khách
quan ở một giai đoạn lịch sử cụ thể
xác định. Theo đó, con người ngày càng đến gần chân
lý tuyệt đối chứ không thể đạt đến chân lý tuyệt đối một cách trọn vẹn.
Tính cụ thể.
Không có chân lý chung
chung, trừu tượng, chân lý luôn luôn rõ ràng, cụ thể. Bởi chân lý chính là sự
phản ánh hiện thực khách quan và được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Do đó,
chân lý phải luôn phản ánh sự vật, hiện tượng ở những điều kiện cụ thể, trong
không gian và thời gian cụ thể. Nếu thoát khỏi những điều kiện cụ thể này thì sẽ
không còn phản ánh đúng sự vật, cũng không còn là “chân lý” nữa. Từ đó, cần
quán triệt nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động, chống giáo
điều, rập khuôn, máy móc, xa rời thực tế.
5. Ý
nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng trong công tác Công
an
Từ vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức chân lý đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm thực tiễn.
* Nội dung quan điểm thực tiễn:
Thứ nhất, việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn.
Thứ hai, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học
đi đôi với hành.
Thứ ba, tránh khuynh hướng xa rời thực tiễn, dẫn tới bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Đồng thời, tránh tuyệt đối
hóa vai trò của thực tiễn, dẫn tới chủ nghĩa nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ
nghĩa.
* Vận dụng quan điểm
thực tiễn trong công tác Công an:
Mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực an ninh trật tự, cũng như
việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của ngành về các lĩnh vực công tác phải xuất phát từ tình hình thực tiễn,
từ yêu cầu thực tiễn đặt ra, đảm bảo việc chỉ đạo, định hướng hoạt động một cách
hiệu quả.
Các hoạt động của công tác công an phải bám
sát thực tiễn đang diễn ra ở trong nước và trên thế giới,
đặc biệt là tình hình thực tiễn trên các lĩnh vực, các địa bàn công tác.
Hoạt động nghiên cứu lý luận khoa học
an ninh cần được đẩy mạnh trên cơ sở bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn để bổ
sung, phát triển và kiểm nghiệm tính đúng đắn, giá trị thực tiễn của lý luận.
Lý luận phải tập trung giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra trong công
tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh của lực lượng Công an, tránh giáo điều,
duy ý chí, đồng thời cũng không tuyệt đối hóa thực tiễn, dẫn tới tính thực dụng,
nhất thời trong tư duy lý luận.
Các lực lượng Công an cần đặc biệt
coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn về mọi mặt công tác,
đặc biệt tổng kết theo chuyên đề, lĩnh vực có tính chuyên sâu nhằm đánh giá
đúng tình hình, phát hiện những bất cập trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh
với các đối tượng có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm, phương hướng nâng
cao hiệu quả các mặt công tác của lực lượng Công an.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội
phạm ngày càng phức tạp, công tác của lực lượng Công an ngày càng khó khăn,
nguy hiểm, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ Công
an nhân dân cần tích cực, chủ động học tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác bảo đảm an ninh trật tự.
CHƯƠNG III
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Quan niệm duy vật về lịch sử là một
trong những phát kiến vĩ đại của C.Mác. Đã có nhiều nghiên cứu trước Mác về xã
hội với nhiều tư tưởng triết học xã hội có giá trị, là tiền đề, điều kiện để
triết học macxit kế thừa, hình thành và phát triển quan điểm duy vật lịch sử.
Tuy nhiên, do hạn chế của lịch sử, các nhà triết học trước Mác thường chỉ giải
thích lịch sử xã hội theo lập trường duy tâm, dựa trên thuyết định mệnh, tức là
quy nguyên nhân sự phát triển của xã hội là do tư tưởng, hoặc các cá nhân, anh
hùng có tính quyết định, từ đó tìm đến các biện pháp cải tạo xã hội ở lĩnh vực
tinh thần. Các nhà triết học duy vật trước Mác thường sử dụng phương pháp tư
duy siêu hình để xem xét bản chất con người và xã hội. Họ quy bản chất con người
vào bản tính tự nhiên, từ đó mà tuyệt đối hóa vai trò của hoàn cảnh địa lý, tự
nhiên trong sự phát triển xã hội, hoặc áp dụng quy luật tự nhiên, sinh học một
cách rập khuôn, máu móc vào đời sống xã hội. Đặc biệt, các nhà triết học duy vật
trước Mác không xuất phát từ hoạt động thực tiễn nên không thấy được vai trò của
hoạt động thực tiễn tạo nên sự phát triển có tính cách mạng của con người.
Thời đại ngày nay có nhiều học giả
quan tâm và luận giải về con đường và quy luật phát triển của xã hội loài người.
Một số học giả theo thuyết kỹ trị đã tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố kỹ thuật
và coi đây là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Một số học giả phương
Tây hiện đại như R.Arazon, I.Ganbrautơ, Rostow vẫn tiếp tục coi kỹ thuật, công
nghệ là yếu tố quyết định. Nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler tiếp cận
theo góc độ các nền văn minh, từ đó chia lịch sử loài người thành ba nền văn
minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Vượt qua các cách tiếp cận trên,
C.Mác phát hiện ra rằng quy luật vận động của lịch sử loài người là hết sức đơn
giản. Ông khẳng định “con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi
mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v…”[33].
Những nhu cầu đó muốn được đáp ứng phải cần tới hoạt động sản xuất vật chất. Từ
đây, C.Mác kết luận lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sản xuất
vật chất, nghiên cứu xã hội phải xuất phát từ con người hiện thực, sống và hoạt
động thực tiễn, từ đó các ông xây dựng nên các quan điểm duy vật về lịch sử, được
xem là một phát kiến vĩ đại của loài người.
I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ -
XÃ HỘI
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và cũng là một trong những nội dung quan trọng
của chủ nghĩa Mác; nó là sự thể hiện tập trung nhất quan niệm duy vật về lịch sử
- một trong hai phát minh vĩ đại của C.Mác. Kế thừa thành tựu của những người
đi trước trong việc nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là xã hội tư
bản, C.Mác đã xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đặc trưng cho một giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử loài người. Hình thái kinh tế - xã hội được cấu
thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, trong đó bao gồm những yếu tố cơ bản: lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Những bộ phận này tác động lẫn
nhau theo những quy luật khách quan.
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại
và phát triển xã hội
a. Sản xuất vật chất và phương thức
sản xuất
- Sản xuất vật chất:
Các nhà kinh điển đã khẳng định sản xuất vật chất
là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đây là một
nguyên lý cơ bản, là điểm xuất phát trong nghiên cứu xã hội. Để tồn tại và phát
triển, con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người
và xã hội loài người.
Sản xuất là
hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích
thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất diễn
ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống hiện thực. Ph.Ăngghen
khẳng định: "Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch
sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác và
tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn. Nếu như có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó
có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định, thì họ đã biến
câu đó thành một câu trống rỗng, vô nghĩa”[34].
Sự sản xuất xã hội, tức
là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm ba phương diện không
tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân
con người.
Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác nhau,
trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của
đời sống xã hội. Cùng với sản xuất vật chất, con người tiến hành sản xuất tinh
thần. Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm
thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Đồng thời, cùng
với hai phương diện sản xuất cơ bản nói trên, xã hội còn phải sản xuất ra bản
thân con người. Sự sản xuất ra bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình
là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái để duy trì nòi giống. Ở phạm vi xã hội là sự
tăng trưởng dân số, phát triển con người với tính cách là thực thể sinh học -
xã hội.
Sản
xuất vật chất là quá
trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra
của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Theo
Ph. Ăngghen, "điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội
loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản
xuất”[35].
Như vậy, sản xuất vật chất là một
trong những loại hoạt động đặc trưng của con người - đó cũng chính là một loại
hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên
theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Với ý nghĩa như vậy,
sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch
sử và tính sáng tạo.
- Phương thức sản xuất
Ở mỗi giai đoạn
lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định, tức là có một
cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là phương thức sản xuất. Phương
thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Phương thức sản
xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm
chỉ hai mối quan hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ
giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất. “Người ta không thể sản
xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và
để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối
liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức
là việc sản xuất”[36]. Do vậy, phương
thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động giữa
con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của cải
vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có
phương thức sản xuất của nó với những đặc điểm riêng. Phương thức sản xuất của
người nguyên thủy có đặc trưng là cách thức kỹ thuật đánh bắt tự nhiên còn ở
trình độ hết sức thô sơ, còn phương thức sản xuất trong xã hội hiện đại lại có
đặc trưng ở trình độ kỹ xảo công nghiệp và công nghệ cao. Mỗi phương thức sản
xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế của nó. Phương diện kỹ
thuật của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành bằng
cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản
xuất; còn phương diện kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất
được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. Trong các xã hội nông
nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật chủ yếu của quá trình sản xuất là các
công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và khép kín về phương diện kinh tế.
Ngược lại, trong các xã hội hiện đại, quá trình sản xuất lại được tiến hành với
phương thức kỹ thuật công nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường với những quy mô
ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc
vào nhau giữa các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội.
b. Vai trò của sản xuất vật
chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội
-
Vai trò của sản xuất vật chất:
Theo
quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại
và phát triển xã hội loài người.
Sản
xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con
người và xã hội; là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan
hệ xã hội của con người; nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát
triển của xã hội loài người.
Khác
với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C. Mác đã xuất phát từ "con người hiện
thực" và đi đến kết luận rằng: tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con
người, và do đó là tiền đề của mọi quá trình lịch sử đó là việc "con người
ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được
thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để
thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất"[37].
Cũng vì vậy, có thể nói con người với tư cách "người", được bắt đầu bằng
tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình.
Để
tiến hành quá trình sản xuất vật chất - tức quá trình cải biến giới tự nhiên,
con người tất yếu phải thiết lập nên những mối quan hệ nhất định với nhau, đó
chính là những quan hệ sản xuất và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà làm
phát sinh những mối quan hệ xã hội khác: chính trị, đạo đức, pháp luật, ...
Theo C. Mác, "việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp
và do thế, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một
thời đại đều tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước,
các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của
con người ta"[38].
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên,
biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không
ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi,
phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến
cao. Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến cùng
có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất của xã hội. Do đó, để
giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải
tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ thực trạng phát triển của nền sản xuất vật
chất của xã hội đó mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của
nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở trình độ cao hơn nền sản xuất phong kiến
chính là vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất dựa vào trình độ phát
triển của phương thức sản xuất công nghiệp và hình thức tổ chức kinh tế thị trường
ngày càng hiện đại, cũng nhờ đó mà nó có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn
rất nhiều phương thức sản xuất phong kiến với trình độ lao động căn bản là thủ
công với hình thức tổ chức kinh tế tự cấp tự túc, khép kín. Chính vì vậy mà có
thể nói: các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở chỗ nó sản xuất ra
cái gì mà là ở chỗ nó được tiến hành bằng cách nào với công cụ gì.
Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là
cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất,
từ nền sản xuất vật chất xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải
thích đời sống tinh thần; để phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống
kinh tế - vật chất.
- Vai trò của phương thức sản xuất
Với
việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ
phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó là với trình độ phát triển của đời
sống xã hội nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch
sử nhân loại theo lịch sử thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất.
Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu
khách quan của quả trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến
trình độ ngày càng cao hơn: "Phương thức sản xuất Á châu, cổ đại, phong kiến
và tư sản hiện đại",... Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế phát
triển của các phương thức sản xuất cũng chính là quy luật chung trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định,
tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện đa dạng
về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản
xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước bỏ qua một hoặc một vài
phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản xuất có tính chất
phổ biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn.
Đó chính là sự biểu hiện của tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường
phát triển của mỗi cộng đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch
sử nhân loại. Tuy nhiên, dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong
phú đa dạng như thế nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển phải trải qua
những con đường vòng nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là
phát triển theo chiều hướng đi lên từ phương sản xuất ở trình độ thấp lên trình
độ cao hơn.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải
có các nhân thuộc về người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,... của
người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động,
công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,...). Toàn bộ các
nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất.
* Lực lượng
sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động
với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản
xuất và năng lực thực tiễn
làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của
con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, thể hiện năng lực của con người trong chinh phục tự nhiên, là nội
dung của phương thức sản xuất.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất
được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất)
và mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp
giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn
dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động
và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính
đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất
theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất
- năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Người lao động là con người có tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất
của xã hội. Người lao động
là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội.
Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản
xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có
trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Tư liệu sản
xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Đối tượng
lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động
con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với
mục đích sử dụng của con người.
Tư liệu lao
động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người
dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm
công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện
lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với
công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong
quá trình sản xuất vật chất.
Công cụ lao
động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp
sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của
cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật
chất "trung gian", "truyền dẫn" giữa người lao động và đối
tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là "khí quan" của
bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người
sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ
vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ngày nay,
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển,
công cụ lao động được tin học hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá càng có vai trò đặc
biệt quan trọng. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực
lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch
sử; là thước đo trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn
để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, C.Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với
những tư liệu lao động nào”[39].
Đặc trưng chủ
yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động.
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Suy
đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng
thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ
thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động
bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thì người lao động do bản chất
sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ
bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra
ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất,
nguồn gốc của sự phát triển sản xuất.
Cùng với người
lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không
thể thiếu được, đặc biệt, trình độ phát triển của công cụ lao động là một nhân
tố quyết định năng suất lao động xã hội. Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của
con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện
khách quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất
luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển lực lượng sản xuất là
kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình
độ.
Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất
xã hội hoá trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công
cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công
cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản
xuất; trình độ, kinh nghiệm kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ
phân công lao động xã hội. Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là không tách rời nhau.
Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản
xuất trong lịch sử, C.Mác khẳng định: "Tri thức xã
hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản
xuất trực tiếp"[40].Ngày nay, trên thế giới đang diễn
ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển, cả
người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hoá, nền kinh tế của nhiều quốc
gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong
đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định
nhất đối với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao
chất lượng cuộc sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ
cao, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất
và trong đời sống xã hội. Lực
lượng sản xuất phát triển trong mối quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất chính là nhân tố cơ bản, tất
yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất; không một quá trình sản
xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu một trong hai nhân tố là người lao
động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn
ra quá trình sản xuất hiện thực được mà còn cần phải có những quan hệ sản xuất
đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất ấy.
* Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất
quan trọng nhất - quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người
với người.
Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố
trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng
của cải vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về
phân phối sản phẩm lao động. Những quan hệ sản xuất
này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ
sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là quan
hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất liên hệ mật thiết
với nhau, không tách rời nhau thể hiện ở chỗ mọi lực lượng sản xuất (người sản
xuất, công cụ sản xuất, đối tượng sản xuất, phương tiện sản xuất) đều nằm trong
những quan hệ nhất định nào đó của quan hệ sản xuất (đều nằm trong một tổ chức
sản xuất, dưới sự quản lý của một đơn vị sản xuất nào đó); ngược lại, mọi quan
hệ sản xuất đều là những quan hệ nhất định của một lực lượng sản xuất nào đó,
nó phải chứa đựng một nội dung nào đó.
Lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất, có tác động
biện chứng. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định
sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Trong
mối quan hệ này, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động
trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất suy cho cùng quyết định quan hệ sản xuất. Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, lực lượng
sản xuất thay đổi, sớm muộn cũng kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất, vì
lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức, nội dung quyết định
hình thức. Phân tích sâu thêm, ta thấy mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
tức lực lượng sản xuất, xét đến cùng, qui định mối quan hệ giữa con người với
con người, tức quan hệ sản xuất. Điều đó có nghĩa là mức độ chinh phục của con
người đối với giới tự nhiên (rộng hay hẹp, ít hay nhiều) qui định mức độ quan hệ
giữa con người với con người (rộng hay hẹp, ít hay nhiều). Quan hệ giữa con người
với con người trong thời đại tự động hóa, khác quan hệ giữa con người với con
người trong thời đại thủ công. Nói cách khác, thời đại kinh tế khác nhau thì
quan hệ giữa con người với con người cũng khác nhau. Đó là bí mật mà C.Mác đã
phát hiện ra.
Thứ hai, tư liệu sản xuất đặc biệt là công cụ lao động,
nó qui định cách thức tổ chức quản lý sản xuất. Đối với cái cối xay chạy bằng
hơi nước có cách tổ chức quản lý khác với đối với cái cối xay chạy bằng tay. Điều
này còn thể hiện rõ nét trong lĩnh vực quân sự, khi xuất hiện vũ khí mới thì
cách thức tổ chức quân đội cũng sẽ khác trước.
Thứ ba, trình độ khoa học kỹ thuật khác nhau cũng sẽ đưa
lại cách thức tổ chức quản lý khác nhau.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát
triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực
lượng sản xuất trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Đòi hỏi tất
yếu của nền sản xuất xã hội là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển.
C.Mác đã nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với
việc thay đổi các quan hệ xã hội:
“Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do
có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của
mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người
thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại
xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản
công nghiệp”[41].
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất thể
hiện ở chỗ nó có đời sống riêng của nó; nó có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi
song hành với sự phát triển của lực lượng sản xuất; nhưng nhìn chung, nó thường
thay đổi chậm so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, quan hệ sản xuất qui định trực tiếp mục đích xã
hội của nền sản xuất; qui mô, tốc độ, hiệu quả, xu hướng, nhịp điệu của sản xuất;
qui định khuynh hướng phát triển của công nghệ. Chẳng hạn, ai, giai cấp nào nắm
quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì họ đề ra mục tiêu, qui mô, tốc độ sản xuất có
lợi cho người đó, giai cấp đó.
Thứ ba, nếu phân phối hợp lý theo đúng hiệu quả lao động
mà người ta bỏ ra thì có thể kích thích sự hăng say làm việc, kích thích sáng
chế phát minh, cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, khiến cho lực lượng sản xuất
phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến
trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương
thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương thức sản xuất chiếm
hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện
khách quan và chủ quan quy định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất có những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất
yếu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất
xã hội chủ nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra “tự
động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội
chủ nghĩa có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.
* Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong
thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất,
trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xoá bỏ một
quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành
chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu
khách quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan
trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở
khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến
việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả
to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các
quan hệ xã hội, bao gồm các quan hệ vật chất và các quan hệ tinh thần nhất định.
Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ vật chất với các quan hệ
tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ bản tác động
ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
a.
Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
C.Mác chỉ rõ: “Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những
hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó"[42]. Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu, quyết định
mọi quan hệ xã hội khác. Từ đó cho thấy cơ sở hạ tầng được hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đây là toàn bộ các
quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp
thành một cơ cấu kinh tế hiện thực.
Cấu
trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: quan
hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho phương thức sản xuất, các quan hệ sản xuất
đan xen cũng như các quan hệ sản xuất tàn dư và các quan hệ sản xuất tương lai
dưới dạng mầm mống đang tồn tại trong xã hội đó.
Mỗi quan hệ sản xuất có
một vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng
cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết
chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng
bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật, triết học… cùng những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố về quan điểm
tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng với những quan hệ nội tại
trong các yếu tố đó hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Mỗi yếu
tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Các yếu tố
của kiến trúc thượng tầng tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau
và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh những cơ sở hạ tầng nhất định.
Song, không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó. Một số bộ phận
như kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý có mối liên hệ trực tiếp với cơ
sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức,
v.v. lại có liên hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc
thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước là công cụ quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc
thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là nhà nước - công cụ quyền lực
chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của
giai cấp thống trị mới trở thành một sức mạnh thống trị toàn bộ đời sống xã hội.
Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư
tưởng, cùng những thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định
và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần xã hội và cả
tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng.
b. Quy luật về mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản của sự vận động phát triển
lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, bởi lẽ cơ sở
hạ tầng bao giờ cũng là cơ sở hạ tầng của một kiến trúc thượng tầng nhất định;
Ngược lại, kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng là kiến trúc thượng tầng được xây
dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
* Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng suy cho cùng quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc
thượng tầng cũng phải biến đổi theo. C.Mác cho rằng cơ sở kinh tế thay đổi thì
toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng.
Ông còn cho rằng không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những
hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của
con người để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng
những quan hệ và hình thái đó đều bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất….
Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối
với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế
căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những
mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản
xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội. Đây chính là quan điểm duy vật
triệt để của C.Mác.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng sản sinh ra kiến trúc thượng tầng.
Quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định quan hệ về chính trị,
pháp quyền, tư tưởng; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, qui định
mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng qui định tính chất của kiến trúc
thượng tầng; giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế, giai cấp đó chiếm
địa vị thống trị trong kiến trúc thượng tầng.
* Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
đối với cơ sở hạ tầng
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập
do nhu cầu phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị
trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở
hạ tầng của xã hội.
Sự
tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều
phương thức, hình thức, điều này tùy
thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị
trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện kiến
trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức và hình thức tác động của
các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố nhà
nước và pháp luật mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó.
Nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp
nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng
có thể diễn ra theo nhiều xu hướng và mục tiêu, thậm chí các xu hướng không chỉ
khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi
ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau: có sự tác
động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế độ xã hội hiện
thời, lại có sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và có xu hướng
đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội
khác.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực
hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các yếu
tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển
kinh tế, nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu
cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh trong một phạm vi và mức độ nhất định.
Tuy nhiên, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng dù diễn
ra với những xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rất cuộc nó không thể
giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội; cơ sở hạ tầng
kinh tế của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
Nghiên cứu biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng để khẳng định lịch sử vận động phát triển của xã hội (về cơ bản –
xét trong xã hội có gia cấp) là lịch sử của các nền kinh tế, chính trị văn hóa
xã hội khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện kịch sử nhất định.
* Ý nghĩa trong
đời sống xã hội
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một
cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Hạt nhân của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng chính là mối liên hệ giữ kinh tế và chính trị. Kinh tế là tổng thể
các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối; tổng thể các mối quan hệ trong quá
trình sản xuất. Như vậy, theo nghĩa rộng, kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất
và trao đổi. Theo nghĩa hẹp, thực chất của kinh tế là lợi ích, là sở hữu, là hạt
nhân của cơ sở hạ tầng. Chính trị là quan hệ các giai cấp, các lực lượng chính
trị; quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia xung quanh vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực chính trị mà tập trung ở quyền lực nhà nước. Như vậy, chính trị,
thực chất là giải quyết các quan hệ chính trị nhằm giành lấy quyền lực nhà nước
và sử dụng quyền lực nhà nước để giải quyết các quan hệ lợi ích, chủ yếu là lợi
ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng cầm quyền. Kinh tế và chính trị liên hệ mật
thiết với nhau, không tách rời nhau; không có kinh tế tách rời chính trị; ngược
lại, không có chính trị tách rời kinh tế. Như vậy, không có kinh tế và chính trị
thuần túy, tách rời nhau.
Xét đến cùng kinh tế (không phải là yếu tố duy nhất) gữi
vai trò quyết định đối với chính trị; kinh tế thay đổi, sớm muộn chính trị cũng
phải thay đổi theo. Trình độ kinh tế nhất định sẽ có một trình độ chính trị nhất
định tương ứng; chính trị suy cho cùng là sản phẩm của kinh tế. Theo
Ph.Ăngghen, lĩnh vực mà chúng ta nghiên cứu càng xa rời lĩnh vực kinh tế, đi gần
tới lĩnh vực tư tưởng trừu tượng thuần tuý chừng nào thì chừng đó chúng ta lại
càng nhìn thấy sự ngẫu nhiên trong quá trình phát triển của nó, khi đó đường biểu
diễn của nó càng đi theo đường chữ chi. Nhưng nếu vạch đường trục trung bình của
đường biểu diễn, sẽ thấy rằng thời gian nghiên cứu càng dài, lĩnh vực nghiên cứu
càng rộng thì cái trục đó sẽ càng đi gần cái trục của sự phát triển kinh tế.
Chính trị có tính độc lập tương đối của nó, nó có thể
thay đổi nhanh, chậm, song hành, thậm chí vượt trước kinh tế, nhưng nhìn chung
nó thay đổi chậm so với kinh tế. Chính trị là một trong những hình thức biểu hiện
của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất; nó có
tác động trở lại kinh tế. Chính trị có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại trong việc vận dụng các qui luật
khách quan; tạo điều kiện, môi trường pháp lý cho sự phát triển của kinh tế;
khi nắm bắt được các qui luật kinh tế, chính trị có thể định hướng, đề ra mục
tiêu, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp, bước đi cho sự phát triển của kinh tế.
Không có định hướng chính trị thì kinh tế sẽ dễ rối loạn. Chính trị không chỉ
lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ các vấn đề then chốt của
kinh tế, như ngân sách, vốn, tiền tệ, tài chính. Chính trị thông qua nhà nước
tác động đến kinh tế theo ba khả năng: cùng chiều (thúc đẩy); ngược chiều (kìm
hãm); một số cùng chiều, một số ngược chiều (vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm). Trong
lịch sử, chúng ta thấy, thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Hồ Chí Minh cho rằng
chăm lo phát triển kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân,
đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Theo Bác, chính trị phải đi đầu (tư tưởng phải
thông suốt), chính trị tốt thì sản xuất mới được tốt.
Như vậy, đường lối chính trị thể hiện rõ nhất ở đường lối
kinh tế. Ở nước ta từ 1975 đến 1986, cả trong lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế,
ta mắc bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội; tức làm ngược, dùng chính trị tiên tiến
kéo quan hệ sản xuất lạc hậu (cách mạng quan hệ sản xuất là hàng đầu trong ba
cuộc cách mạng), dùng quan hệ sản xuất tưởng là tiên tiến để kéo lực lượng sản
xuất lạc hậu bằng cách xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường; hậu
quả là khủng hoảng kinh tế, từ đó dẫn đến khủng hoảng xã hội; khiến cho quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, “tiến” mà
không “thẳng”, “bỏ” mà không “qua”. Đó cũng là sai lầm chung của hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước kia, sau khi hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc lại chú trọng
quá mức đến chính trị mà ít quan tâm đến kinh tế, ít chú trọng phát triển lực
lượng sản xuất, xa rời phát triển sức sản
xuất.
Ngày nay, nhờ có đường lối chính trị đúng đắn với chủ
trương kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, mà chúng
ta đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường, chính trị xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững, vị thế nước
ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia
ngày càng tăng thêm, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp.
Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng chính trị đúng đắn phải có
phải có cơ chế, bước đi, lộ trình thực hiện thích hợp để hiện thực hóa các mối
quan hệ trong đời sống xã hội. Và luôn luôn lưu ý, xét đến cùng chính trị vẫn bị
quyết định bởi kinh tế. Nếu không vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị thì sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý
chí, hoặc chủ nghĩa duy kinh tế.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế
- xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
a. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Trước C.Mác, các nhà xã hội
học và sử học thường nói về mục đích và sự tiến bộ xã hội một cách trừu tượng
theo quan điểm duy tâm chủ quan. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời loài
người mới có một lý luận thực sự khoa học để nhận thức được đúng bản chất của
xã hội, phân tích được những quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát
triển của xã hội loài người.
Từ những tư tưởng của C.Mác,
V.I.Lênin đã tiếp tục phát triển, làm phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế
- xã hội. Trên cơ sở khẳng định tư tưởng của Mác, Lênin đã chỉ ra những sai lầm
của các nhà xã hội học trước Mác là không biết xuất phát từ những quan hệ giản
đơn là quan hệ sản xuất mà đi thẳng vào nghiên cứu những hình thức chính trị,
pháp luật, vào việc hình thành những hình thức đó từ những tư tưởng này, tư tưởng
nọ của loài người trong thời đại nào đó và đến đấy thì họ dừng lại, kết quả là
quan hệ xã hội dường như do con người tạo ra một cách có ý thức.
Vì đóng khung quan hệ xã hội
vào quan hệ tư tưởng, những người xã hội học chủ quan không thấy được tính lặp
lại của những hiện tượng xã hội ở những nước khác nhau, từ đó họ quy khoa học
chỉ là miêu tả những hiện đó. V.I.Lênin đã chỉ ra việc tách quan hệ sản xuất ra
với tư cách là quan hệ cơ bản, quyết định quan hệ tư tưởng cho phép ứng dụng
tiêu chuẩn được lặp đi lăp lại để khái quát các chế độ xã hội khác nhau trong lịch
sử và quy vào khái niệm “Hình thái kinh tế - xã hội”.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất
ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất:
quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận
động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi
quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất
các chế độ xã hội khác nhau.
Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện
các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ
mặt tinh thần của đời sống xã hội.
b. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Về tính tự nhiên của tiến trình phát triển xã hội loài
người, các quá trình phát triển đều diễn ra một cách tự nó, tuân theo những qui
luật khách quan vốn có, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; còn
các quá trình phát triển trong xã hội đều có sự tham gia tích cực của con người.
Con người không chỉ tham gia mà còn sáng tạo ra lịch sử, nhưng không phải sáng
tạo một cách tuỳ tiện, chủ quan, mà sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh,
tiền đề vật chất nhất định, phù hợp với qui luật khách quan (tránh chủ nghĩa chủ
quan cũng như khách quan thuần tuý).
Xã hội là sản phẩm của sự tác động
qua lại giữa những con người, là tổng số những mối liên hệ, quan hệ của các cá
nhân. Nhưng những cá nhân này luôn có những lợi ích, ý chí, nguyện vọng, mong
muốn chủ quan không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau; điều mà người này muốn
lại bị người kia cản trở; và xu hướng phát triển của xã hội, cuối cùng xuất hiện
ra như là một cái mà không có ai mong muốn cả, không theo ý muốn chủ quan của
người này người nọ; bởi vậy, cho đến nay, lịch sử đã phát triển theo kiểu một
quá trình tự nhiên, và về căn bản, cũng bị chi phối bởi cùng những qui luật vận
động như tự nhiên. Chính vì vậy, C.Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"[43].
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên là quá trình diễn
ra một cách khách quan, tuân theo những qui luật vốn có của nó, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người..
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội tuân
theo những qui luật khách quan (qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng qui định kiến trúc thượng tầng,
qui luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, .v.v.. ), không phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người, nó đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện, từ cộng sản nguyên thủy lên phong kiến, tư bản và cộng sản chủ
nghĩa, bởi vậy, nó cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Trong những qui luật
này thì qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quan trọng nhất. V.I.Lênin cho rằng chỉ có đem qui những quan hệ xã
hội về quan hệ sản xuất, đem qui quan hệ sản xuất về trình độ của lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn thế giới, thì lịch
sử loài người phát triển tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã
hội. Song, do đặc điểm lịch sử - cụ thể, thì không phải quốc gia nào cũng tuần
tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội mà có thể phát triển theo con
đường "bỏ qua" một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Đó
là khả năng "phát triển rút ngắn".
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử. Xu hướng cơ bản, xu
hướng chung của sự vận động, phát triển lịch sử loài người là do sự chi phối của
quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung với cái đặc thù và cái riêng)
xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgíc của toàn bộ tiến
trình lịch sử loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của tiến bộ lịch sử. Mặt khác, sự phát
triển của xã hội loài người còn mang tính lịch sử. Các hình thái kinh tế - xã hội
như những trạng thái khác nhau về chất trong tiến trình lịch sử, với những điều
kiện về không gian, thời gian cụ thể, với các tiêu chí về sự phát triển của lực
lượng sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội
cụ thể.
Sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao
hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và
sự phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một
số quốc gia, dân tộc cụ thể.
Sự phát triển
phong phú, nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể
của các giai đoạn xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước
quanh co, thậm chí những bước thụt lùi lớn, khả năng rút ngắn, bỏ qua những
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Theo V.I.Lênin: “Tính quy luật chung của
sự phát triển lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một
số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm về hình thức hoặc về trật tự của sự
phát triển đó”[44]. Bản chất của việc "bỏ qua" một hay vài hình thái
kinh tế - xã hội sự phát triển rút ngắn xã hội. Đó là rút ngắn các giai đoạn,
bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực
lượng sản xuất.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự
qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có. Nhưng do đặc
điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố khách quan
và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, nhưng có những quốc
gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới
thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn, đồng thời bên cạnh đó còn
có những vùng, những quốc gia, dân tộc ở trình độ phát triển thấp, thậm chí rất
thấp. Do sự giao lưu, hợp tác quốc tế mà giữa các trung tâm, các khu vực, các
quốc gia xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch
sử. Quy luật kế thừa sự phát triển lịch sử luôn luôn cho phép các quốc gia, dân
tộc có thể bỏ qua các giai đoạn phát triển không cần thiết để vươn tới trình độ
tiên tiến của nhân loại. Tuy nhiên việc phát triển bỏ qua một hay vài hình thái
kinh tế - xã hội, bên cạnh những điều kiện khách quan của thời đại, còn phụ thuộc
vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia, dân tộc.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử
xã hội. Phát triển là xu hướng tất yếu, cơ bản của lịch sử xã hội loài người.
Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang phát triển cuối cùng của xã hội loài
người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết định sự vận
động phát triển của xã hội loài người. Những tiền đề vật chất cho sự vận động
phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư bản. Đó là lực lượng sản
xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách mạng,
đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tiền đề lý luận cho sự vận động phát
triển xã hội đã xuất hiện, đó là hệ tư tưởng Mác - Lênin khoa học và cách mạng.
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là
cách mạng xã hội.
c. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị
trong khoa học xã hội. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt
nhân của nó là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã cung cấp một phương pháp
luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
Thứ nhất,
theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất
và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và
lịch sử nói chung.
Không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí
chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải
xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt
là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội với cốt lõi của
nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai,
theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động, trong đó
các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống
nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai
trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.
Để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng
phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học - xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện
thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị,
pháp luật, văn hóa, khoa học,... ) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau
giữa chúng.
Thứ ba,
theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những
vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động,
phát triển của xã hội. V. I. Lênin từng nhấn mạnh rằng: "Xã hội là một cơ
thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết
thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội
như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cẩn phải phân tích
một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất
định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái
xã hội đó"[45].
Thứ tư, học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở để phê phán các quan điểm sai lầm.
Trước sự phát triển của khoa học và công nghệ từ những
năm 50 của thế kỷ XX, một số nhà xã hội học phương Tây đã đưa ra những tiêu chí
mới khi tiếp cận xã hội, hòng phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
Mác. Họ giải thích sự tiến hóa của lịch sử như là sự thay thế lẫn nhau giữa nền
văn minh nông nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp (tin học, trí tuệ).
Cách tiếp cận này sai lầm cơ bản là chỉ coi sự phát
triển của kinh tế, của trình độ khoa học công nghệ là yếu tố duy nhất quyết định
sự thay đổi mới của đời sống xã hội. Lý thuyết này cố ý bỏ qua vấn đề bản chất
xã hội nhằm chứng minh sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản.
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái
kinh tế - xã hội là những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc
nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nó
không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu
về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V. I. Lênin từng dạy rằng: lý luận đó
"không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một
phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử"[46].
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở
khoa học cho việc xác định con đường phát triển của Việt Nam đó là quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn, có khả năng và điều kiện để thực hiện. Con đường phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là
phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã
hội trong sự phát triển lịch sử.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển rút ngắn
trong lịch sử loài người. Bản chất của sự phát triển rút ngắn xã hội là rút ngắn
các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng
nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Qua quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển
lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: “Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu của
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”[47].
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở
lí luận, phương pháp luận khoa học trong quán triệt quan điểm đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mô hình, mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định
với các tiêu chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Đồng thời xác định các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học và cách mạng
trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến diện về xã hội.
Phê phán thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật,
xoá nhoà sự khác nhau về bản chất của các chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự
tồn tại vĩnh viễn của chế độ tư bản.
Ngày nay thực tiễn xã hội và sự
phát triển của nhận thức khoa học đã bổ sung, phát triển mới các quan niệm lịch
sử xã hội, song lí luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, là
quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các
vấn đề xã hội, là cơ sở nền tảng lí luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối
với nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng chủ
nghĩa xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường chủ
nghĩa xã hội. Đây cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu tranh tư
tưởng chống lại các quan điểm phiến diện, sai lầm, phản động hòng phủ nhận mục
tiêu, lý tưởng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Ý nghĩa đối với
công tác Công an
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác là học thuyết “vĩ đại nhất” trong triết học lịch sử - nó mang tính khoa học,
cách mạng cho mọi thời đại, vạch ra con đường khách quan và sự hiện diện tất yếu
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai. Trước những
tác động mạnh mẽ của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nhất là lý luận về
xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại, các học
giả tư sản, kẻ thù lý luận đang tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng, xuyên tạc,
bóp méo hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng ta. Vì vậy, người cán
bộ công an cần phải có trình độ nhận thức và bản lĩnh để đấu tranh đập tan các
luận điệu đó.
- Người cán bộ công an cần phải nắm chắc hệ thống lý
luận, hiểu sâu sắc lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, con đường phát triển
chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn, bảo vệ nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cụ thể là:
+ Nắm vững và hiểu bản chất cách mạng, khoa học của sự
phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. C.
Mác cho rằng: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên”.
+ Việt Nam lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là đúng đắn, hợp quy luật khách
quan.
- Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
+ Do ý thức hệ của giai cấp thống trị, bóc lột có quan
điểm đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp.
+ Nhào nặn vô căn cứ các học thuyết, trào lưu triết học
để biện hộ cho sự tồn tại của giai cấp bóc lột, tuyên truyền, bác bỏ chủ nghĩa
xã hội. Chẳng hạn như một số luận điểm phản động sau:
Thứ nhất, các thế lực thù địch cho học thuyết về lịch
sử của chủ nghĩa Mác là một phiên bản thế tục của thuyết quyết định luận.
Nói như vậy là sai, phản khoa học vì “quyết định luận”
của chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: “ý chí” siêu thực, siêu nhiên nào đó
quyết định mọi sự tồn tại, còn chủ nghĩa Mác cho rằng cái quyết định sự vận động
của xã hội là từ sản xuất vật chất, từ điều kiện phát triển kinh tế sâu xa là
giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ, cách mạng với quan hệ sản
xuất lạc hậu trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
* Họ cho chủ nghĩa Mác là giấc mơ
về xã hội không tưởng, nó đặt niềm tin vào một xã hội hoàn hảo không có khổ cực
đau buồn, không bạo lực và không mâu thuẫn,...đó là cách nhìn nhận ngây thơ, ấu
trĩ vào bản chất của con người.
Đó là luận điệu xuyên tạc, phản khoa học. Mục tiêu của
chủ nghĩa Mác là xóa bỏ mọi sự bất công, bóc lột trong xã hội và như vậy phải
xóa bỏ giai cấp bóc lột tiến tới xây dựng một xã hội không có giai cấp. Vậy
không phải là một giấc mơ mà là một hiện thực khi giai cấp vô sản viết lên lá cờ
của mình “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Những lý luận trên của các học
giả tư sản chỉ biện hộ cho sự bóc lột tối đa của bọn tư bản tài phiệt mà thôi
(hiện nay 1% dân số nước Mỹ chiếm 60% tài sản nước Mỹ, chiếm 96% cổ phiếu toàn
nước Mỹ, thao túng tất cả. Vậy không ai quá “ngây thơ” để cố tình không hiểu bản
chất xấu xa của giai cấp thống trị bóc lột).
- Lực lượng CAND cần thực hiện tốt các chức năng cơ bản:
+ Tham mưu cho các cấp chính quyền không ngừng đổi mới
và nâng cao hiệu quả công tác phát hiện các tổ chức, lực lượng chống phá hệ tư
tưởng Mác - Lênin; chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và lý luận hình thái kinh
tế - xã hội.
+ Trực tiếp đấu tranh với các thế lực thù địch bằng
các hình thức: Trực tiếp tiếp cận đối tượng để đấu tranh; bố trí các lực lượng
phản bác những tư tưởng sai trái; dùng sức mạnh của quần chúng nhân dân...
+ Tăng cường công tác bảo vệ rà soát, thanh lọc nội bộ,
vô hiệu hóa ảnh hưởng của các tổ chức, cá nhân có tư tưởng sai trái.
+ Xây dựng lực lượng công an nhân
dân trong sạch, vững mạnh; xây dựng lòng tin trong cán bộ, chiến sĩ về sự tất
thắng của chủ nghĩa xã hội, của hệ tư tưởng Mác - Lênin để họ hết lòng bảo vệ Tổ
quốc và nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
Giai
cấp và dân tộc là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác
nhau và không thể thay thế được nhau. Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất
đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại nói chung, giai cấp có trước dân tộc
hàng nghìn năm song khi giai cấp mất đi thì dân tộc sẽ vẫn còn tồn tại. Tuy
nhiên, giữa giai cấp và dân tộc lại có mối liên hệ mật thiết, tác động biện chứng
qua lại với nhau. Trong lịch sử của loài người nói chung từ khi xuất hiện các
giai cấp cho thấy, vấn đề dân tộc luôn luôn được xem xét và giải quyết trên lập
trường của một giai cấp nào đó.
Là
học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng các dân tộc và toàn nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã có sự luận giải sâu sắc về mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, giữa giai cấp và dân tộc thì
nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc, áp bức
giai cấp là cơ sở của áp bức dân tộc nhưng vấn đề dân tộc cũng là một trong những
vấn đề quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản… Những
luận điểm về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác -
Lênin đã trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động cũng như các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Giai cấp
* Định nghĩa
giai cấp
Cần khẳng định ngay rằng, C.Mác không phải là người đầu
tiên phát hiện ra xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Các nhà tư tưởng
trước Mác đã phát hiện và xây dựng nhiều quan điểm có giá trị về giai cấp trong
xã hội.
- Quan điểm phi macxit:
Ở phương Đông, quan niệm về giai cấp hình thành khá sớm
ở Trung Quốc, từ tr.CN, Khổng Tử (551-479 trCN) phân chia xã hội thành tứ dân
(sỹ - nông - công - thương). Sự phân chia này không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu
mà theo ngành nghề. Đây cũng là bậc thang giá trị xã hội. Nó phản ánh một nền
kinh tế tiểu nông khép kín, tự cấp tự túc, công thương nghiệp chưa phát triển.
Sĩ
được xếp là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp
trí thức, những người có học, có hiểu biết về chữ nghĩa (thầy đồ, thầy thuốc,
quan lại, học trò). Tầng lớp này nhìn chung có cuộc sống nhàn nhã, suốt ngày
chăm chỉ đọc sách thánh hiền, làm văn, ngâm thơ và gần như không tham gia trực
tiếp vào quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất. Những con người bình dân muốn thay đổi
cuộc sống gần như chỉ có con đường duy nhất là học và thi khoa cử. Trong gia
đình kẻ sĩ, người vợ phải tần tảo sớm hôm lo việc đồng áng, canh cửi để nuôi
chồng. Nếu chồng thi đậu khoa cử, người vợ sẽ trở thành bà thám, bà bảng hay là
mợ cử, mợ tú. Nếu chồng thi trượt, người vợ vẫn có thể hãnh diện với danh vợ
thầy đồ làng hay là vợ tú tài.
Nông là
chỉ những người nông dân cày ruộng, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội
xưa. Đa phần những người nông dân quanh năm suốt tháng lao động chân lấm tay
bùn, vất vả sớm trưa nhưng nhiều khi không đủ ăn do những gánh nặng về thuế
khoá, lao
dịch hay
thiên tai, mất mùa. Nông có sự phân hoá thành 3 loại chính:
Trung nông: những người có ruộng đất riêng,
sở hữu công cụ sản xuất, tự làm, tự ăn, không phải đi làm thuê đồng thời cũng
không tham gia bóc lột.
Bần
nông: những người chỉ sở hữu ít ruộng đất, phải đi canh tác thêm trên ruộng đất
của địa chủ, phải thuê mướn trâu bò và nông cụ sản xuất.
Cố
nông: là những người nghèo khổ nhất tầng lớp nông dân và có thể nói là cả xã hội,
không có ruộng đất cũng như công cụ sản xuất, họ sử dụng sức lao động đi làm
thuê cho chủ để kiếm ăn.
Công là
chỉ những người làm thủ công nghiệp, làm thuê trong các làng nghề truyền thống như dệt, chạm bạc, khâu nón, làm
tranh... Họ được xếp vào hàng thứ ba trong tứ dân bởi số lượng ít do thực tế
trong xã hội thời xưa chỉ tồn tại những làng nghề thủ công ở quy mô nhỏ, chủ
yếu phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp của làng xã. Ở thành thị, những người thợ
này tập hợp thành "phường" để bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau, còn ở nông
thôn, những thợ thủ công phần nhiều vẫn là những người nông dân, họ tranh thủ
làm thêm để cải thiện cuộc sống những lúc nông nhàn.
Thương là
những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã
hội, xuất phát từ thực tế nền kinh tế tự cung, tự cấp và tính tự trị của làng
xã gần như không có nhu cầu trao đổi hàng hoá ra khỏi phạm vi cư trú, những
người hành nghề buôn bán do đó phải năng động, sòng phẳng, thậm chí gian lận mới
có lãi. "Buôn gian bán lận" đã trở thành cụm từ phổ biến cho tới tận
ngày nay, đó là điều mà một xã hội thuần nông coi trọng lễ nghĩa không muốn
chấp nhận.
Ở phương Tây, hiện
tượng xã hội phân chia thành giai cấp đã được các nhà tư tưởng phi macxit phản
ánh trong học thuyết của mình. Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, quan điểm về
giai cấp lại càng rõ ràng hơn. Trước Mác, có nhiều cách giải thích khác nhau về
sự phân chia xã hội thành các giai cấp: nguyên nhân sinh vật học, địa vị xã hội
khác nhau về bản chất giữa các tập đoàn người trong xã hội, dẫn đến việc chưa
chỉ rõ được thực chất của sự phân biệt giai cấp. Tomat Morơ, Campanenla, Rutxơ
nhìn thấy quyền tư hữu là gốc rễ của những tai họa. Xanh Ximong xác lập quyền
sở hữu là cơ sở của kiến trúc thượng tầng xã hội. S.Phurie đã phát hiện ra tình
trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, “sự nghèo khổ được
sinh ra từ sự thừa thãi”. Trên cơ sở cái nhìn biện chứng, ông đã dự đoán xã hội
văn minh tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng chế độ xã hội mới mà ông gọi là
“chế độ xã hội được đảm bảo” hay “xã hội hài hòa”.
Công lao lớn nhất trong việc phát hiện ra vấn đề giai
cấp và đấu tranh giai cấp lại thuộc về những nhà sử học lãng mạn của Pháp giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XIX: Các nhà sử học như Chieri, Ghido, Gion, Uêđơ … đã
trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, trong
đó Mác gọi Chieri là bố đẻ của đấu tranh giai cấp. Các ông cho rằng lịch sử xã
hội phong kiến và sự hình thành xã hội tư sản là lịch sử cuộc đấu tranh thứ ba
chống quý tộc và tăng lữ.
Nghiên cứu quá trình vận động lịch sử ấy, các nhà sử học
lãng mạn phát hiện ra các khái niệm cơ bản như: giai cấp, đấu tranh giai cấp,
quan hệ sở hữu tài sản là nguồn gốc đấu tranh giai cấp. Họ nhận ra rằng, trong
xã hội có những tập đoàn người có lợi ích và địa vị khác nhau, hình thành nên
các giai cấp khác nhau. Trong đó, Chieri phân chia xã hội thành ba đẳng cấp:
quý tộc, tăng lữ và toàn bộ số nhân dân còn lại mà người tư sản là trung tâm. Đẳng
cấp quý tộc và tăng lữ là giai cấp thống trị, đẳng cấp thứ ba là giai cấp bị trị.
Khi giải thích về nguồn gốc giai cấp, các nhà sử học
lãng mạn đã có quan điểm duy tâm khi khẳng định sự chinh phục là yếu tố quyết định
sự hình thành giai cấp. Theo họ, người Giéc manh chiến thắng người Ga lô La Mã
là nguyên nhân hình thành giai cấp phong kiến, những người đi chinh phục hợp
thành quý tộc phong kiến và những kẻ bại trận trở thành đẳng cấp thứ ba.
Điều đáng chú ý là, các nhà sử học lãng mạn luôn tìm
cách biện hộ cho sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản. Họ vẫn biết cuộc đấu
tranh của giai cấp tư sản chống chủ nghĩa phong kiến là tất yếu, đẳng cấp thứ
ba có quyền xóa bỏ sự thống trị của quý tộc và tăng lữ, nhưng họ ra sức phủ nhận
mâu thuẫn tồn tại trong đẳng cấp thứ ba. Theo họ, đấu tranh giai cấp dù có tính
chất tiến bộ, nhưng đã chấm dứt cùng chiến thắng của giai cấp tư sản. Từ đây,
giai cấp tư sản là đại biểu cho lợi ích toàn dân tộc.
Các nhà kinh tế học như Ricacđô, Min, Xây, Tôrrenxo
v.v… đã trình bày những mối quan hệ kinh tế của các giai cấp.
Phần lớn các “lý thuyết phân tầng” của xã hội học tư sản
hiện đại cũng thừa nhận sự tồn tại thực tế của các giai cấp.
Những người bác bỏ sự tồn tại của các giai cấp chỉ chiếm
số ít trong các nhà khoa học tư sản.
Như vậy, các nhà triết học phi macxit đã đưa ra rất
nhiều luận điểm có giá trị, là tiền đề cho những phát kiến sau này. Các nhà tư
tưởng phi macxit có thể thấy được tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội. Họ
thừa nhận sự tồn tại, thậm chí cả sự đối lập của các giai cấp trong xã hội
(giai cấp chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp phong kiến và
nông nô trong xã hội phong kiến, giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội cận và
hiện đại). Ngoài các giai cấp còn có các tầng lớp, các nhóm xã hội gắn với hệ
thống giai cấp này hay khác. Tuy nhiên, các nhà triết học phi macxit chưa thấy
được cơ sở thực sự khoa học để xác định các giai cấp và xu hướng vận động của
cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội. Họ đã không đưa ra được những định
nghĩa cụ thể về giai cấp và nguồn gốc của nó, cũng như chưa chỉ ra được con đường
để thủ tiêu xã hội có giai cấp, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế
độ xã hội mới.
Các Mác đi nghiên cứu về giai cấp từ việc phân tích
kết cấu phương thức sản xuất đã có cách tiếp cận khoa học: lấy lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội làm cơ sở nghiên cứu xã hội. Mác đã đi tìm cái gốc của cơ
cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó là kinh tế.Theo C.Mác, sự phân chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất nhiên của sự
phát triển lịch sử xã hội. Quan hệ giai cấp chính là biểu hiện về mặt xã hội
của những quan hệ sản xuất, trong đó tập đoàn người này có thể bóc lột lao động
của tập đoàn người khác. Vì vậy, chỉ có thể hiểu đúng vấn đề giai cấp khi gắn
nó với đời sống kinh tế, với nền sản xuất vật chất xã hội.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong tác phẩm
“Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa khoa học về giai cấp.
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà
tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn
đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”[48].
Định nghĩa của V.I.Lênin đã chỉ ra các đặc trưng cơ
bản của giai cấp, sau đây:
Trước hết, giai
cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.
giai cấp là những tập đoàn
người to lớn, là những khối quần chúng đông đảo, có lợi ích cơ bản gắn bó chặt
chẽ với nhau. Chẳng hạn, giai cấp chủ nô, giai cấp nô lệ trong xã hội chiếm hữu
nô lên; giai cấp địa chủ phong kiến và nông nô trong xã hội phong kiến; giai
cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản. Như vậy, nói đến
giai cấp là nói đến tập đoàn người trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định
chứ không nói đến những cá nhân riêng lẻ. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh,
nếu một cá nhân chỉ đấu tranh vì lợi ích của mình, lợi ích đó không gắn với lợi
ích của cả tập đoàn người thì người đó đứng ngoài giai cấp.
Dấu hiệu chủ yếu quy đinh địa vị kinh tế-xã hội của các giai cấp là các mối
quan hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản xuất.
giai cấp là những tập đoàn người
khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất xã hội, trên ba phương diện cơ bản:
khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất (qua chế độ sở hữu); khác
nhau về vai trò trong tổ chức lao động, trong tổ chức quản lý sản xuất; khác
nhau về cách thức và quy mô thu nhập của cải xã hội. Trong đó, sự khác nhau về
quan hệ đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định địa vị giai cấp trong
hệ thống sản xuất xã hội.
Chủ nô (trong chế độ chiếm hữu nô lệ); địa chủ phong
kiến (trong chế độ phong kiến), tư sản (trong chế độ tư bản chủ nghĩa) là những
tập đoàn giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu.
Trước hết, do họ sở hữu tư liệu sản xuất xã hội, tức là nắm được phương tiện,
điều kiện vật chất quan trọng nhất để chi phối lao động của các tập đoàn người
không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất hoặc
không có tư liệu sản xuất (nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, nông nô trong
chế độ phong kiến, vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa) buộc phải phụ thuộc về
kinh tế vào các tập đoàn thống trị.
Thực chất của
quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là tập đoàn người này
chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong một chế
độ kinh tế - xã hội nhất định.
do các sự khác nhau giữa về địa vị kinh tế của các
tập đoàn người trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định đã dẫn đến tình
trạng chiếm đoạt lao động của tập đoàn thống trị trong hệ thống kinh tế - xã
hội đối với những tập đoàn khác. Điều đó nói lên rằng, sự đối lập về lợi ích căn bản do sự
khác nhau về địa vị kinh tế và tình trạng chiếm đoạt lao động giữa các tập đoàn
người sẽ dẫn đến tính đối kháng trong quan hệ giai cấp. Trong lịch sử, các giai
cấp bị chiếm đoạt lao động, bị áp bức bóc lột đã tiến hành các cuộc cách mạng
để xóa bỏ tính đối kháng và sự áp bức bóc lột ấy. Tuy nhiên, cuộc cách
mạng xóa bỏ sự áp bức bóc lột, xóa bỏ giai cấp là cuộc cách mạng không thể theo
ý muốn chủ quan hay bằng sức mạnh bạo lực thuần túy mà phải là một cuộc cách
mạng kinh tế và mấu chốt của nó là phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng
sức sản xuất xã hội.
Như
vậy, giai cấp không là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những
hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống sản xuất nhất
định với những điều kiện khác nhau sẽ hình thành nên các giai cấp với những đặc
trưng riêng.
Định nghĩa giai cấp của Lênin cho thấy, giai
cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn
với những hệ thống sản xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp xét đến cùng là do nguyên nhân
kinh tế. Tuy nhiên, không được biến định nghĩa giai cấp thành một phạm trù kinh
tế đơn thuần. Chỉ có thể xem xét các giai cấp trong hệ thống những mối quan hệ
xã hội đa dạng, phức tạp và không ngừng vận động, biến đổi mới có thể nhận thức
một cách đầy đủ và sâu sắc sự khác biệt của các giai cấp về kinh tế, chính trị,
tư tưởng, tâm lý, đạo đức, lối sống…Song cơ sở khoa học để xem xét các mối quan
hệ đó, theo V.I.Lênin, không thể có gì khác hơn là phân tích chế độ kinh tế đã
sản sinh ra các giai cấp đó và địa vị cụ thể của mỗi giai cấp trong một chế độ
kinh tế - xã hội nhất định.
Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin mang bản chất cách mạng và khoa học, có
giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở để nhận thức đúng đắn vị
trí, vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho
giai cấp vô sản cơ sở lý luận khoa học để nhận thức được vai trò lịch sử của
giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xoá bỏ giai cấp và xây dựng xã hội mới.
* Nguồn gốc giai cấp
Về nguồn gốc giai cấp, có thể khẳng định, việc phát hiện
ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp không phải là phát hiện
mới trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một trong những phát hiện mới và
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là đã chỉ ra rằng sự tồn tại của giai cấp, đối
kháng và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của nhân loại, cũng không phải
là sự tiền định mà chỉ là hiện tượng có
tính lịch sử, tức là chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất, của lịch sử nhân loại. C. Mác khẳng định: "Sự tồn tại của
các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất”[49].
Thật vậy, xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn
tại các giai cấp.
-Nguồn gốc trực tiếp hình thành giai cấp:
Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác
nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp,
chủng tộc, dân tộc… Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra những xung đột xã hội
mang tính chất đối kháng. Sự ra đời giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn
thấp kém với công cụ bằng đá, gậy gộc, cung tên…, con người làm ra sản phẩm chỉ
đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa
có khả năng xuất hiện chế độ người bóc lột người, chưa thể có các giai cấp.
Cuối xã hội nguyên thủy, việc sử dụng phổ biến công cụ
bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số
lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu để tồn tại.
Với công cụ sản xuất mới, sản xuất cá thể từng gia
đình có hiệu quả hơn sản xuất tập thể nguyên thủy. Lực lượng sản xuất phát triển
dẫn đến sự phân công lao động lớn: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Trao
đổi sản phẩm trở thành hoạt động thường xuyên, phổ biến. Quan hệ sản xuất cộng
đồng nguyên thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất mới. Các gia đình có
tài sản riêng ngày càng nhiều và trong công xã xuất hiện sự chênh lệch tài sản.
Chế độ tư hữu dần thay thế chế độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất.
Từ đó, những người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc
đã có thể lợi dụng địa vị của mình để chiếm đoạt tài sản của công xã làm của
riêng. Sự phát triển lực lượng sản xuất sang trình độ mới tạo khả năng và tiền
đề phân hóa xã hội thành giai cấp. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở
trực tiếp của sự hình thành các giai cấp.
Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc
chiến tranh giữa các bộ lạc không bị giết mà được sử dụng làm nô lệ phục vụ cho
những người giàu có và có địa vị trong xã hội. Giai cấp chính thức hình thành từ
đó.
Như vậy, chế độ tư hữu là cơ sở quyết
định trực tiếp cho sự ra đời giai cấp. Giai cấp đối kháng đầu tiên trong lịch sử
là chủ nô và nô lệ, sau đó là địa chủ phong kiến và nông dân, tư sản và vô sản.
Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo ra tiền đề để thủ tiêu giai cấp.
Như vậy, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp
cũng như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của hệ thống giai cấp này hay hệ
thống giai cấp khác là nguyên nhân kinh tế chứ không phải nguyên nhân chính trị
hay tư tưởng.
-Nguồn gốc sâu xa làm hình thành giai cấp: sự phát triển
của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao động tăng lên, do
đó làm xuất hiện thời gian lao động thặng dư của xã hội, biểu hiện thành sự dư
thừa của cải tương đối của xã hội.
Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân hay sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất không phải theo ý muốn chủ quan mà là tuân
theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp
trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội
hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình độ xã hội
hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng
và đấu tranh giai cấp trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội
và đặc biệt là của xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có
thể diễn ra với những hình thức, mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác
nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác động cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ
quan đến tiến trình vận động, phát triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có
thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng người
trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản. Đó là: sự hình thành, phát triển giai cấp
diễn ra chủ yếu dưới sự tác động của nhân tố bạo lực và sự hình thành, phát triển
giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật kinh tế phân hóa những
người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ngoài ra, trong thực tế
lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.
-Khi nào giai cấp mất đi:
Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại một cách tất
yếu suốt quá trình lịch sử nhiều nghìn năm trong điều kiện cơ bản sau đây: lực
lượng sản xuất đã phát triển tới mức tạo ra được sản phẩm thặng dư, nhưng chưa
đạt tới mức có thể bảo đảm thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người. Sự phân chia
xã hội thành giai cấp sẽ bị sự phát triển đầy đủ của những lực lượng sản xuất
hiện đại xóa bỏ.
C.Mác và Ph.Ăngghen chứng minh chủ nghĩa tư bản phát
triển cao sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất hùng mạnh và những điều kiện kinh tế
- xã hội khác để xóa bỏ giai cấp.
Khi đó, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, nền sản xuất tự động hóa cao cho phép người lao động tách khỏi quá trình
sản xuất trực tiếp, trở thành người điều khiển sản xuất. Sự phát triển rất cao
của lực lượng sản xuất làm cho sự phân chia giai cấp mất tính tất yếu. Lực lượng
sản xuất phát triển rất cao tuy là điều kiện cơ bản, nhưng không phải là duy nhất
để thực hiện xã hội không giai cấp.
Còn có những điều kiện kinh tế - xã hội khác, đặc biệt
là sự phát triển cao và toàn diện của con người. Chủ nghĩa tư bản trong quá
trình phát triển tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội cho xã hội không có giai
cấp.
Tuy nhiên, các giai cấp không tự động mất đi, để tiến
tới một xã hội công bằng, văn minh, không còn giai cấp, không còn chế độ người
bóc lột người, giai cấp công nhân, nhân dân lao động phải tiến hành cuộc đấu
tranh tự giác, có tổ chức, tiến tới giành lấy dân chủ, thiết lậ p chính quyền của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa vào đó mà cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới không giai cấp. Đó là cả một thời đại lịch sử lâu dài, phải trải qua
nhiều bước trung gian quá độ hết sức phức tạp. Xã hội có giai cấp không tồn tại
vĩnh cửu mà chỉ là một giai đoạn tất yếu của lịch sử loài người.
* Kết cấu xã
hội - giai cấp
Kết cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các
giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết cấu xã hội - giai cấp trước hết do trình độ
phát triển của phương thức sản xuất xã hội quy định. Trong xã hội có giai cấp,
kết cấu xã hội - giai cấp thường rất đa dạng do tính đa dạng của chế độ kinh tế
và cơ cấu kinh tế quy định.
Mỗi xã hội có giai cấp, có kết cấu giai cấp riêng, bao
gồm:
Hai giai cấp cơ bản gắn liền với phương thức sản xuất
đang giữ địa vị thống trị. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ, địa chủ và
nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ
nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là sản phẩm đích thực
của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại
sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai
cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.
Một số giai cấp không cơ bản là tàn
dư của phương thức sản xuất cũ, hoặc là mầm mống của phương thức sản xuất tương
lai.
Trong những tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư
của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong buổi đầu của xã hội tư bản), có tập
đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong
kiến).
+ Một số tầng lớp trung gian như trí
thức và một số tầng lớp khác là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống
trị, là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội.
Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị
và nông thôn trong xã hội tư bản.
Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội
có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, đó là tầng lớp
trí thức. Nhân tố chi phối sự phân hóa của các tầng lớp trung gian là lợi ích.
Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị
là tùy thuộc vào vị trí lợi ích của họ.
b. Đấu tranh giai cấp
* Tính tất yếu
và thực chất của đấu tranh giai cấp
- Tính tất yếu
Trong xã hội có giai cấp tất yếu sẽ nảy sinh đấu tranh
giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của
các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các
giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt lao động mà còn bị áp bức về
chính trị, xã hội và tinh thần. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện
pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh
tế - xã hội, cho phép họ được hưởng những đặc quyền đặc lợi của họ là quyền lực
nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của
giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức
bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột, đối kháng đó là
nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Do
vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng
tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
- Thực chất của
đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột
chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của
những người lao động làm thuê, những người nô lệ bị áp bức về chính trị - xã hội
và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải
quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa quần chúng nhân
dân lao động bị áp bức, bóc lột với giai cấp thống trị, bóc lột có đặc quyền đặc
lợi ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau với phạm vi và trình
độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Cả
ba hình thức đấu tranh đều rất quan trọng.
Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu
tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn
hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
Để đảm bảo cuộc đấu tranh tự giải phóng đi đến thắng lợi
cuối cùng, giai cấp công nhân phải có học thuyết cách mạng và khoa học soi đường,
phải tổ chức chính đảng của mình, phải trở
thành một giai cấp tự giác và có tổ chức. Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ
ra rằng muốn tự giải phóng về mặt kinh tế, công nhân không thể dừng lại ở đấu
tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng mà phải tiến lên đấu tranh chính trị để giành
lại các quyền tự do dân chủ và cuối cùng giành chính quyền. Trong thực tế lịch
sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc,
tôn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của
những người lao động làm thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện được
sự bóc lột của nó, các giai cấp bóc lột trong lịch sử (giai cấp chủ nô, giai cấp
phong kiến, giai cấp tư sản) tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức
- đó là nhà nước với những đội vũ
trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì sự thống trị giai cấp. Vì vậy,
vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào nếu
chưa giải quyết được vấn để chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết
được những vấn đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp.
Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều
xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm của
nó mà chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới đỉnh cao của sự phát
triển đấu tranh giai cấp.
* Vai trò của
đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát
triển quan trọng của các xã hội có giai cấp.
+ C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vật phát triển, đấu
tranh giai cấp là thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội
có giai cấp. Sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người và xã hội loài người là hành động lịch sử đầu tiên của con người. Sự phù
hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là điều kiện cơ bản để sản xuất
phát triển thuận lợi, tạo cơ sở cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó trở thành
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những
quan hệ sản xuất lỗi thời được giai cấp thống trị bảo vệ. Muốn thay đổi quan hệ
sản xuất để giải phóng sức sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển
phải thực hiện qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến
cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất
mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát
triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển là động lực thúc đẩy sự phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh
cao là thời kỳ cách mạng như đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội, do
đó “đấu tranh giai cấp” là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh vai trò to lớn của đấu
tranh giai cấp chống áp bức bóc lột. Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu
tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai
cấp chủ nô thì chế độ nô lệ thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong
kiến, các phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức...
do giai cấp tư sản lãnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản trong các thế
kỷ XVI, XVII, XVIII làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại
tư sản.
Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh giai cấp đều
dẫn tới sự ra đời của một phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là
những cuộc cách mạng xã hội.
Trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự
phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh
giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và
chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động
lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển
xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức
và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của
mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản xuất vật chất của
xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại
được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống
chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống
kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua giải quyết mâu thuẫn đối kháng
giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn
trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động,
lạc hậu, đồng thời cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động
(qua đấu tranh cho tự do, không cam chịu số phận nô lệ), các giai cấp bị áp bức
mới gột rửa được tinh thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người áp bức
người sản sinh ra.
Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới,
giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến
trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải
cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa
các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
- Trong thời kỳ phát triển bình
thường của xã hội có giai cấp, ngay khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với lực lượng
sản xuất, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng:
+ Thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt bởi nó kích thích
sự áp dụng khoa học vào sản xuất, tăng năng suất lao động thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
+ Đấu tranh giai cấp làm chế độ dân chủ được hoàn thiện
hơn.
Dưới chế độ tư bản, sức ép của phong trào công nhân là
một trong những động lực mạnh mẽ, thường xuyên trực tiếp thúc đẩy giai cấp tư sản
đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kỹ thuật mới nhằm đảm bảo lợi nhuận của họ.
Qua đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình, giai cấp công nhân ngày càng trưởng
thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, do đó có khả năng thực hiện nhiệm vụ lịch
sử của mình.
c. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
- Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc
đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì
mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Cuộc đấu tranh do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc
đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là phương tiện tất yếu
để giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự phân chia giai cấp
và đấu tranh giai cấp. Vì vậy đây là một quá
trình đấu tranh lâu dài và phức tạp. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển tất yếu
dẫn đến cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng này thắng lợi trước hết ở những khâu yếu
nhất của chủ nghĩa tư bản, nơi giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng có
những điều kiện khách quan và chủ quan để giành chính quyền.
Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành
được chính quyền, đấu tranh giai cấp chưa biến mất mà tiếp tục diễn ra gay go,
phức tạp trong điều kiện mới.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu
tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.
Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính
của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.
V.I.Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản,
những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước
được”[50].
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi
nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu
tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của
nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất
lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây
dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh. Vì vậy khi khẳng định rằng
“đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản”, C.Mác cũng chỉ rõ “bản
thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và
tiến tới xã hội không có giai cấp”[51]
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mục tiêu đấu
tranh trực tiếp của giai cấp công nhân đã thay đổi: từ mục tiêu giành chính quyền
chuyển sang mục tiêu củng cố chính quyền của nhân dân lao động, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là xây dựng kinh tế, giai cấp tư sản đã bị lật
đổ, tiến hành cuộc đấu tranh chống cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm phục hồi chủ
nghĩa tư bản.
Điều kiện đấu tranh, mục tiêu trực tiếp của các giai cấp
thay đổi thì hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Cuộc đấu tranh thời kỳ
này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư
tưởng. Giai cấp công nhân phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt nhiều hình thức đấu
tranh: đấu tranh bằng bạo lực và hòa bình, bằng chính trị, quân sự và kinh tế,
bằng cải tạo các quan hệ cũ đã lỗi thời và xây dựng quan hệ mới đúng quy luật…
Theo V.I.Lênin: Chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng
lợi triệt để khi giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng xây dựng thành
công phương thức sản xuất mới, đảm bảo chủ nghĩa xã hội tạo ra được năng suất
lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu này chưa thực hiện được thì khả
năng phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn còn rất lớn.
Cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu
tranh lâu dài, gay go, phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của giai cấp công nhân, nông
dân và toàn thể nhân dân lao động. Tùy theo những điều kiện lịch sử cụ thể mà
cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội lâu dài, gay go phức tạp khác nhau. Ở Liên
Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, các lực lượng chống chủ nghĩa xã
hội đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nhất là lợi dụng những
sai lầm nghiêm trọng của các đảng cộng sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập
lại trật tự tư sản. Hai loại sai lầm nghiêm trọng dễ mắc phải là:
Chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật kinh tế khách
quan, trong khi lại tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, nhất là tuyệt đối hóa một
trong những hình thức của đấu tranh giai cấp.
Cơ hội hữu khuynh, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh
giác trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã
hội.
*Đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay
- Đặc điểm đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay:
Một là, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta tiến hành
trong điều kiện từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
+Đây là đặc điểm cơ bản nhất quy định tính chất quá độ
ở nước ta, cho thấy đấu tranh giai cấp ở nước ta khác các nước Liên Xô, Trung
Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Đối với các nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ là quá độ
trực tiếp, đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội.
Còn đối với nước ta, bằng quá độ gián tiếp thì đối tượng
đấu tranh là nền sản xuất nhỏ và xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội thì nhiệm vụ của đấu tranh giai cấp ở nước ta không đơn giản là “cải tạo”
cơ cấu xã hội - giai cấp mà còn phải xây dựng lực lượng sản xuất mới, tức phải
xây dựng lại từ đầu lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Ở nước ta, đối tượng chính là sản xuất nhỏ, vì thế phải sử dụng chủ nghĩa tư bản
mà xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là phải sử dụng các hình thức kinh tế trung
gian để tạo tiền đề nảy sinh các nhân tố xã hội chủ nghĩa.
+ Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá
trình phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ, đi qua chủ nghĩa
tư bản nhà nước, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm tạo những bước
phát triển vượt bậc về kinh tế, mà sự tăng trưởng phát triển kinh tế đặc biệt
có ý nghĩa đối với nước ta, khi mà nguy cơ tụt hậu về kinh tế đã được xác định
là 1 trong 4 nguy cơ lớn đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân
Hai là, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay được
tiến hành trong điều kiện đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thống nhất hữu cơ với nhau.
Có lẽ ít nơi nào trên thế giới, đấu tranh giai cấp
luôn quyện chặt với đấu tranh dân tộc suốt chiều dài lịch sử như ở Việt Nam. Vì
thế, không thể xem xét cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thoát ly khỏi truyền thống dân tộc.
Trận tuyến đấu tranh giai cấp ở nước ta được xác định:
một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường
dẫn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết
trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo với một bên là các tổ chức,
phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước và pháp
luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
Ba là, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra trong điều kiện quốc tế diễn biến phức tạp,
các thế lực thù địch tăng cường diễn biến hòa bình nhằm phủ định chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Hướng tác động của “diễn biến hòa bình” là triệt để lợi
dụng quá trình đổi mới có nhiều sơ hở, thiết sót để tác động làm chệch hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Điểm kết thúc của “diễn biến hòa bình” ở lĩnh vực
chính trị là thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa, trọng điểm của “diễn biến hòa
bình” là Đảng Cộng sản, Nhà nước XHCN Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh không
phân trận tuyến, không ồn ào sôi động mà lặng lẽ, thậm chí ngọt ngào. Chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu phải trả giá đắt vì mất cảnh
giác với cuộc chiến tranh này.
Có thể thấy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp, vị trí giai cấp thay đổi dẫn đến quan hệ
giữa các giai cấp cũng có sự thay đổi. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể tránh khỏi.
- Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh:
+ Phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đảm bảo định hướng
xã hội chủ nghĩa; xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều
hình thức nhưng nổi bật lên là đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa:
+ Một bên là quần chúng nhân dân
lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết trong mặt trận
thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo.
Một bên là các
thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống
Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động trong nước cấu
kết với các thế lực phản động quốc tế sử dụng âm mưu “diễn biến hoà bình” hòng
thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế độ
xã hội.
+ Đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa
Đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch
chuyển theo xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Các nhân tố tự phát tư bản chủ
nghĩa này được những thế lực chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lợi dụng
phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển
trên đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực trước hết là lĩnh
vực kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở
Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất
công, chống nghèo nàn, lạc hậu. Cuộc đấu tranh đó diễn ra hàng ngày, hàng giờ,
diễn ra trên các tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực
kinh tế và lĩnh vực trật tự xã hội. Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam
hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức và các tầng
lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư sản, do đó, sẽ có mâu thuẫn giữa
người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản, còn có mâu thuẫn giữa sự phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát lên chủ nghĩa
tư bản của tư bản tư nhân.
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân,
nhân dân lao động với tầng lớp tư sản tuy mang tính chất là mâu thuẫn đối kháng
giữa lao động và bóc lột, nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay lại là mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Khẳng định điều đó vì: kinh
tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần,
tầng lớp tư sản có vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Họ có khả năng
tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện
nay, lợi ích hợp pháp của nhà tư sản thống nhất với lợi ích của cộng đồng xã
hội. Trong quan hệ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tư
sản là vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
- Nội dung chủ yếu của đấu tranh
giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta:
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển,
Thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu
tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
Bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước
XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực đấu tranh giai cấp: là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo,
kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ nặng nề và phức tạp, lâu dài, do vậy, phải nắm
vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan điểm giai cấp. Tuyệt đối hoá đấu
tranh giai cấp, cường điệu đấu tranh giai cấp, né tránh, mơ hồ đấu tranh giai
cấp đều đi ngược lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sẽ gây tổn hại đến
thành quả của cách mạng.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa phải nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là
quan điểm cách mạng và khoa học. Sự tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, sự cường
điệu đấu tranh giai cấp cũng như sự mơ hồ về đấu tranh giai cấp đều trái với
quan điểm giai cấp Mác - Lênin, gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được diễn
ra trong điều kiện mới, với nội dung và hình thức mới với tính chất phức
tạp, khó khăn và lâu dài. Đối với đội ngũ cán bộ và
nhân dân, cần thấu triệt sâu sắc quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc hiện nay. Nhận thức rõ đặc điểm đấu tranh
giai cấp ở Việt Nam và các âm mưu
chống phá của kẻ thù. Giáo dục nâng cao lập trường giai cấp và tinh thần cảnh
giác cách mạng cho đội ngũ cán bộ và nhân dân trong tình hình mới.
2. Dân tộc
a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
Con người có bản chất xã hội, do vậy bao giờ
cũng chỉ tồn tại và phát triển trong những hình thức cộng đồng người nhất định.
Hình thức cộng đồng người là cách
thức tổ chức xã hội của con người trong những thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay, là lịch sử phát triển của
các hình thức cộng đồng người từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân
tộc.
- Thị tộc
Ngay từ khi mới
thoát khỏi giới động vật, con người đã sống thành tập đoàn, đó là những “bầy
người nguyên thuỷ”. Khi tiến đến một trình độ cao hơn, những “bầy người” đó
phát triển thành thị tộc.
Thị tộc có
những đặc điểm cơ bản là các thành viên trong thị tộc đều tiến hành lao động
chung, vai trò của các thành viên phụ thuộc vào vị trí của họ trong nền sản
xuất nguyên thuỷ. Về tổ chức xã hội,
thị tộc bầu ra tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để điều hành công việc
chung của thị tộc.
- Bộ lạc
Bộ lạc là cộng
đồng bao gồm những thị tộc có quan hệ cùng huyết thống hoặc các thị tộc có quan
hệ hôn nhân liên kết với nhau. Bộ lạc là hình thức cộng đồng người phát triển
từ thị tộc và do sự liên kết của nhiều thị tộc có cùng huyết thống tạo thành
Bộ lạc có những đặc điểm cơ bản sau, cơ sở kinh tế của bộ lạc là chế độ
công hữu về đất đai và công cụ sản xuất. Các thành viên trong bộ lạc đều tiến
hành lao động chung, quan hệ giữa các thành viên trong lĩnh vực sản xuất vật
chất là bình đẳng. Về tổ chức xã hội, đứng đầu bộ lạc là một hội đồng gồm những
tù trưởng của các thị tộc tham gia bộ lạc và có một vị thủ lĩnh tối cao. Mọi
vấn đề quan trọng trong bộ lạc đều được bàn bạc và thông qua trong hội đồng
này.
- Bộ tộc
Bộ tộc là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội có sự phân chia
thành giai cấp. Các bộ tộc được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc sống
trên một lãnh thổ nhất định. Nếu như thị tộc và bộ lạc chỉ bao gồm hầu hết là
những người có cùng huyết thống thì bộ tộc là sự liên kết của nhiều bộ lạc
không cùng huyết thống.
Bộ tộc hình thành cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ, hoặc trong những xã hội
bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, thì bộ tộc hình thành cùng với chế độ phong
kiến. Sự hình thành và phát triển của bộ tộc phức tạp hơn thị tộc và bộ lạc. ở
những nước khác nhau, những thời đại khác nhau, bộ tộc có những nét đặc thù
riêng. Với tính cách là một hình thức cộng đồng người trong lịch sử, bộ tộc có
những đặc trưng chủ yếu sau: mỗi bộ tộc có tên gọi riêng; có lãnh thổ riêng
mang tính ổn định; có một ngôn ngữ thống nhất. Nhưng vì mối liên hệ cộng đồng
chưa phát triển nên tiếng nói chung đó còn chưa thực sự vững chắc. Bên cạnh
tiếng nói chung, thổ ngữ của các bộ lạc vẫn được sử dụng rộng rãi. Trong bộ tộc
đã xuất hiện những yếu tố chung về tâm lý, văn hoá. Về tổ chức xã hội, việc
điều hành công việc xã hội thuộc về nhà nước. Nhà nước là công cụ do giai cấp
thống trị tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho giai cấp đó.
Sau bộ tộc, cộng
đồng người phát triển thành hình thức dân tộc - hình thức cộng đồng người cao
nhất và phổ biến nhất của xã hội loài người hiện nay.
b. Dân tộc - hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
- Khái niệm dân tộc
Dân tộc là hình thức cộng đồng người phát
triển cao nhất từ trước đến nay. Khái
niệm dân tộc được dùng theo hai nghĩa.
Dân
tộc (theo nghĩa hẹp) là những cộng đồng tộc người có mối liên hệ tương đối chặt chẽ và bền vững, có chung
sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ, văn hóa riêng. Theo nghĩa này, dân tộc là những
tộc người nhất định, để phân biệt với tộc người khác. Ví dụ, ở Việt Nam có 54 tộc
người anh em, gồm: Kinh, Bana, Êđê...
Dân tộc (theo nghĩa rộng – quốc gia, chỉ trình độ tổ chức
cộng đồng người cao nhất trong lịch sử, để phân biệt với thị tộc, bộ lạc, bộ tộc)
là cộng đồng xã hội – tộc người ổn định bền vững, là sự kết hợp độc đáo các thể
cộng đồng về lãnh thổ, ngôn ngữ, kinh tế, văn hoá, tâm lý, tính cách và có nhà
nước, pháp luật thống nhất.
Từ quan điểm của của các nhà kinh điển, có thể khái quát:
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên cơ
sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế thống nhất,
một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với một nhà nước và pháp luật
thống nhất.
Dân tộc có các đặc trưng chủ yếu
sau:
Một là,cộng đồng về lãnh thổ. Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng, thống nhất, không bị
chia cắt. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải đảo, vùng trời
thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển
của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia. Cộng đồng
lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc.
Hai là, cộng đồng về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công
cụ giao tiếp trong cộng đồng. Các thành viên trong một dân tộc có thể dùng nhiều
ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau, song, điều quan trọng là mỗi dân tộc có một
ngôn ngữ chung thống nhất. Thống nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc trưng
chủ yếu của dân tộc.
Ba là, cộng đồng về kinh tế. C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chứng minh rằng, tác nhân cơ bản
dẫn tới việc chuyển từ hình thức cộng đồng trước dân tộc sang dân tộc là tác
nhân kinh tế. Những mối liên hệ kinh tế thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối
liên hệ thị trường đã làm tăng tính thống nhất, tính ổn định, bền vững của cộng
đồng người đông đảo sống trong một lãnh thổ lớn.
Bốn là, cộng đồng về văn hoá, về
tâm lý, tính cách. Mỗi dân tộc,
có một nền văn hoá độc đáo của mình. Văn hoá của dân tộc hình thành trong quá
trình lâu dài của lịch sử, tạo ra sắc thái riêng của từng dân tộc. Văn hoá dân
tộc mang sắc thái của các tộc người, song nó vẫn là một nền văn hoá thống nhất
không bị chia cắt.
Năm là, cộng đồng về nhà nước và pháp luật thống nhất. Mỗi dân tộc là sự thống nhất của nhà nước và pháp luật
thống nhất. Xu hướng chung là nhà nước và pháp luật được hình thành trên cơ sở
của cuộc đấu tranh giai cấp, xuất phát nguồn gốc từ kinh tế. Do vậy, khi nhà nước
và pháp luật ra đời nó mang tính cưỡng chế chung, tạo ra sự thống nhất mang
tính áp đặt với các cộng đồng tộc người trong dân tộc nhất định. Ngoài ra, một
số dân tộc phương Đông, nhà nước và pháp luật ra đời sớm do các nguyên nhân
khác nhau, song tính chất cưỡng chế chung, thống nhất của nhà nước, về cơ bản
không thay đổi.
Các đặc trưng của dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động biện chứng với nhau trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc,
trong đó xét cho cùng thì nhân tố kinh tế – xã hội có vai trò quyết định, nhân
tố chính trị có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hoá vai trò
kinh tế đi đến phủ nhận các nhân tố khác đối với qúa trình hình thành, phát triển
dân tộc. Do điều kiện, hoàn cảnh nhất định có thể có nhân tố nào đó mờ nhạt
hơn, hoặc nổi trội hơn các nhân tố khác, nhưng nhìn chung các nhân tố đều có
vai trò nhất định và quan hệ chặt chẽ với nhau trong qúa trình hình thành và
phát triển dân tộc.
* Quá trình hình thành các dân tộc ở
châu Âu và đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là hình thức cộng đồng
người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị.
Lịch sử cho thấy, dân tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát triển lên,
song đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp
nhất lại.
C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ, ở châu Âu dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu
gắn liền với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Phương thức thứ
nhất, dân tộc hình thành từ nhiều bộ tộc khác nhau trong một quốc gia. Quá
trình hình thành dân tộc ở đây vừa là một quá trình thống nhất lãnh thổ, thống
nhất thị trường; đồng thời, cũng là một quá trình đồng hoá các bộ tộc khác nhau
thành một dân tộc duy nhất, một quốc gia dân tộc độc lập, như ở các nước Đức,
Ý, Pháp.v.v... Phương thức thứ hai, do điều kiện chế độ phong kiến chưa bị thủ
tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu, dân tộc được hình thành từ một bộ
tộc. ở đây không có quá trình đồng hoá các bộ tộc mà chỉ có quá trình thống
nhất các lãnh thổ phong kiến thành lập một quốc gia gồm nhiều dân tộc, trong đó
mỗi dân tộc hình thành từ một bộ tộc riêng, như trường hợp ở các nước Nga, Áo,
Hung .v.v...
Quá trình hình thành, phát triển dân tộc diễn
ra hết sức lâu dài, đa dạng và phức tạp. ở các nước châu Âu, sự hình thành và
phát triển của dân tộc trải qua các thời kỳ chính: gắn liền với cuộc cách mạng
tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo; gắn liền với phong trào đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc; và thời kỳ các dân tộc xã hội chủ nghĩa ra
đời. Sự hình thành các dân tộc trong lịch sử
trên thế giới còn tuỳ điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, khu vực. Sự hình thành các quốc gia, dân
tộc ở phương Đông có tính đặc thù riêng. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... dân tộc được
hình thành rất sớm, không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Tính đặc thù của sự hình thành
dân tộc Việt Nam
Ngay từ rất sớm, truyền
thống đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống thiên tai và chống ngoại xâm của nhân
dân đã góp phần tạo cơ sở cho sự hình thành dân tộc Việt Nam với những nét đặc
thù sâu sắc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam
trước hết là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Thông qua những
cuộc chiến bảo vệ giang sơn, bờ cõi đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt Nam
đã được tôi luyện, củng cố, tạo cơ sở cho sự gắn kết chặt chẽ giữa các tộc người
với nhau, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư
của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước,
giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Bên
cạnh đó, để bảo vệ mùa màng, bảo vệ nơi sinh sống, các cộng đồng người Việt phải
chung sức chống thiên tai và sự khắc nghiệt của thời tiết. Việc đắp đê trị thủy,
bảo vệ mùa màng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau đã củng cố tinh thần đoàn kết gắn
bó của các tộc người trong cộng đồng, tạo cơ sở cho sự hình thành dân tộc Việt
Nam. Như vậy, dân tộc ở Việt Nam hình thành trước khi xuất hiện giai cấp. Điều
này không giống như sự hình thành dân tộc ở các nước phương Tây.
Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng xã hội – tộc người đa dạng, phong phú.
Theo Danh mục các dân tộc Việt
Nam dựa theo Quyết định số 421, ngày 02 tháng 3 năm
1979 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Việt Nam thì
dân
tộc Việt Nam có 54 tộc người cùng sinh sống. Trong đó tộc người Việt (Kinh) chiếm
khoảng 86,2% dân số. Các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam từ sớm đã
có sự gắn bó mật thiết với nhau.
Dân tộc Việt Nam có sự tồn tại đan xen các cộng đồng tộc
người, tạo ra sự đa dạng phong phú về văn hóa, tâm lý, lối sống, phong tục tập
quán. Tuy nhiên vẫn có sự thống nhất trên cơ sở lãnh thổ, ngôn ngữ, tâm lý tính
cách, kinh tế và nhà nước, pháp luật thống nhất.
Ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam là tiếng Việt (Kinh) được
hình thành từ sớm và trở thành ngôn ngữ chủ đạo trong toàn bộ dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có sự đan xen các ngôn ngữ của các cộng đồng tộc người, tạo ra
sự thống nhất trong đa dạng về ngôn ngữ. 54 tộc người Việt Nam được
xếp theo 3 ngữ hệ và 8 nhóm ngôn ngữ: Việt – Mường, Tày - Thái, Mông - Dao, Ka
Đai, Tạng Miến, Nam Đảo, Hán.
Quan hệ tộc người ở Việt Nam lịch sử
và hiện tại, có sự phát triển, đa dạng và phong phú trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng chung tích cực là các
tộc người ngày càng gắn bó và xích lại gần nhau, tạo điều kiện cho nhau phát
triển về mọi mặt, xu hướng cố kết cộng đồng dân tộc được phát huy, tính thống
nhất hữu cơ giữa các tộc người trong quốc gia dân tộc được củng cố và tăng
cường, thìcó lúc, có nơi vẫn xảy ra những hiện tượng tiêu cực, thậm
chí xung đột trong quan hệ tộc người.
Đặc biệt, những năm gần đây, giữa
các tộc người xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp lợi ích trong phối hợp, chia sẻ,
sử dụng các nguồn lực tự nhiên - xã hội. Việc giải quyết vấn đề di cư tự do
giữa các vùng miền đã làm phức tạp hơn các mối quan hệ tộc người giữa các cộng
đồng tại chỗ với các cộng đồng mới di cư đến, gây nên những vấn nạn như phá
rừng, tranh chấp đất đai, gây mất ổn định xã hội, chưa được giải quyết dứt
điểm. Đời sống của đồng bào các tộc người thiểu số, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng căn cứ cách mạng gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao. Bản sắc
văn hóa, ngôn ngữ của các tộc người có nguy cơ bị mai một trong quá trình giao
lưu, tiếp biến văn hóa, nhất là trong bối cảnh ngày càng có nhiều các tộc người
cư trú đan xen như hiện nay.
Bên cạnh quan hệ giữa các tộc người trong nội bộ dân tộc
dân tộc Việt Nam lịch sử và hiện tại cũng có quan hệ ngoại giao với các dân tộc
trên thế giới. Trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại
từ Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần, Hậu Lê, NguyễnViệt Nam chủ yếu có quan hệ ngoại
giao với các triều đình phong kiến Trung Quốc. Đến năm 1945 khi ra đời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòaquan hệ của Việt Nam với các nước ngày càng được mở rộng.
Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ở nhiều mức độ khác nhau với trên 200 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Hiện tại, Việt Nam có
quan hệ hợp tác tốt với tất cả nước
thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Qua đó, Việt Nam
đã tạo dựng môi trường hòa bình, hợp tác hữu nghị, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
3. Mối
quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại
a. Quan hệ giai cấp - dân tộc
Dân tộc và giai cấp là những phạm
trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác nhau đối với sự
phát triển của xã hội. Trong lịch sử nhân loại, giai cấp có trước dân tộc hàng
nghìn năm. Khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn còn tồn tại lâu dài. Trong một dân
tộc có nhiều giai cấp và ngược lại một giai cấp có thể tồn tại trong nhiều dân
tộc.
* Giai cấp quyết định dân tộc.
Sự phát triển
của phương thức sản xuất xã hội là nguyên nhân xét đến cùng quyết định sự hình
thành, phát triển của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử. Phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa là động lực mạnh mẽ nhất của quá trình thay thế hình
thức cộng đồng bộ tộc bằng hình thức cộng đồng dân tộc. Trong quá trình đó, giai cấp tư sản
đã đóng vai trò chính của việc thúc đẩy sự hình thành dân tộc tư sản.
Quan hệ giai cấp quyết định khuynh hướng phát
triển và tính chất của dân tộc. Trong một thời đại
lịch sử, mỗi dân tộc đều do một giai cấp làm đại diện. Giai cấp đó quy định
tính chất dân tộc. Giai cấp thống trị trong xã hội cũng là giai cấp thống trị
đối với dân tộc. Những giai cấp đang lên trong lịch sử, đại biểu cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất và xã hội cũng là giai cấp đại biểu cho lợi ích
chân chính của dân tộc. Giai cấp đó có khả năng nắm ngọn cờ dân tộc để tập hợp
đông đảo các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong dân tộc đấu tranh chống
giai cấp thống trị phản động, hoặc chống ách áp bức của các
dân tộc khác.
Khi giai cấp thống trị đã trở thành lỗi thời, phản động, lợi ích giai cấp
của nó mâu thuẫn găy gắt với lợi ích dân tộc, chúng sẵn sàng từ bỏ lợi ích dân
tộc để bảo vệ lợi ích giai cấp. Lúc ấy, giai cấp thống trị bóc lột trở thành
lực lượng kìm hãm sự phát triển của xã hội và của dân tộc. Yêu cầu tất yếu phải
làm cách mạng xã hội lật đổ giai cấp thống trị, phản động để giải phóng giai
cấp và giải phóng dân tộc.
Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh, ở các nước Châu Âu từ thế kỷ thứ XV, XVI giai cấp tư sản là
lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất mới (phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa), bởi vậy nó là giai cấp tiến bộ và cách mạng. Lợi ích của giai cấp
tư sản lúc đó có sự phù hợp với lợi ích của các giai cấp có lợi ích gắn liền
với việc thủ tiêu chế độ phong kiến. Giai cấp tư sản đã trở thành giai cấp lãnh
đạo phong trào cách mạng tư sản, thủ tiêu chế độ phong kiến và đưa tới sự hình
thành các quốc gia, dân tộc tư sản. Khi giai cấp tư sản trở thành lực lượng
thống trị xã hội đã duy trì quan hệ áp bức dân tộc và trở nên đối lập với lợi
ích dân tộc. Để tiếp tục tìm kiếm lợi nhuận, giai cấp tư sản đã tiến hành xâm
lược các dân tộc khác. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những mâu thuẫn và bất bình
đẳng dân tộc sâu sắc; đồng thời, là cội nguồn chủ yếu của áp bức dân tộc. Áp
bức giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp bức dân tộc. Vì vậy, đánh đổ giai
cấp tư sản không những chỉ là vì lợi ích giai cấp vô sản và nhân dân lao động
mà còn vì lợi ích của dân tộc. Chính vì vậy chủ nghĩa Mác khẳng định, muốn xoá
bỏ triệt để ách áp bức dân tộc thì phải xoá bỏ nguồn gốc của nó là chế độ người
bóc lột người. Chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề để thực hiện điều đó.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, trong các
nước thuộc địa và phụ thuộc, dân tộc chỉ có thể được giải phóng triệt để khi
đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và chỉ khi đó vấn đề dân tộc, cùng vấn đề
giai cấp mới được giải quyết một cách triệt để.
* Vấn đề dân tộc
có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giai cấp.
Chủ nghĩa Mác -
Lênin chỉ rõ, dân tộc có vai trò quan trọng đối với vấn đề giai cấp.
Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải phóng
giai cấp. Thực tiễn lịch sử khẳng định, trong điều kiện chưa có độc
lập dân tộc thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở thành
“giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc,
phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc lập dân tộc.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có
vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động. V.I.Lênin đưa ra khẩu hiệu kêu gọi giai cấp vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại để chống lại chủ nghĩa tư bản. Đồng
thời đánh giá đúng đắn vai trò có ý nghĩa thời đại của cách mạng giải phóng dân
tộc, chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong nắm ngọn cờ dân tộc để
lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ, nhiệm vụ của của giai cấp
công nhân các nước tư bản, đế quốc là phải ra sức ủng hộ phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc. Muốn đưa phong trào cách mạng tiến lên, giai cấp công nhân
mỗi nước và chính đảng của nó phải tự mình chứng tỏ là người đại biểu chân
chính của dân tộc, phải kết hợp chặt chẽ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc;
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, cách mạng
vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc như “đôi
cách của một con chim”. Người đã chỉ rõ một chân lý là, ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc, sự nghiệp giải phóng giai cấp phải được bắt đầu từ sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Bởi vì, một khi dân tộc đã bị kẻ thù xâm lược thì giai cấp công
nhân và nhân dân lao động cũng trở thành nô lệ cho các thế lực thống trị, bóc
lột ngoại bang. Vì thế, con đường giải phóng giai cấp ở các nước này tất yếu
phải đi từ giải phóng dân tộc và phải gắn lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp.
Đối với cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[52].
Người chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là nhân tố bị động, phụ
thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc; ngược lại, nếu đảng
của giai cấp công nhân có đường lối đúng đắn, biết phát huy nhân tố bên trong
và điều kiện quốc tế bên ngoài, nắm vững thời cơ thì cách mạng ở nước thuộc địa
có thể thành công trước cách mạng ở chính quốc.
Trong thời đại
ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại đem lại; xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá tăng
nhanh làm cho quan hệ giao lưu, hiểu biết giữa các dân tộc xích lại gần nhau
hơn. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp và giải phóng dân tộc hiện nay. Một trong những đặc điểm chủ yếu của
thời đại ngày nay là đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gắn bó chặt chẽ
với nhau.
b. Quan hệ giai cấp, dân tộc với nhân loại
Nhân loại là
khái niệm dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất. Nhân loại
được hình thành trên cơ sở của việc thiết lập những quan hệ giữa các thành
viên, những tập đoàn và những cộng đồng trở nên một thể thống nhất. Cơ sở của
sự thống nhất đó là bản chất người của từng cá thể và của cả cộng đồng, bản
chất đó quy định lợi ích chung và quy luật phát triển chung của cả cộng đồng
nhân loại.
Quan niệm về tính thống nhất toàn nhân loại của chủ nghĩa duy vật lịch sử
không dừng lại ở bản chất tộc loại trừu tượng của con người. Chủ nghĩa duy vật
lịch sử đã chỉ ra bản chất xã hội của con người và loài người, coi đó là tiêu
chí cơ bản để phân biệt loài người với loài vật và bản chất ấy là cơ sở của sự
thống nhất cộng đồng nhân loại. Con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó
nhân loại là cộng đồng của những thực thể có bản chất xã hội. Cộng đồng đó
không ngừng vận động, phát triển theo trình độ phát triển của những năng lực
bản chất người.
Giai cấp, dân tộc và nhân loại có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Là những cộng
đồng và tập đoàn người tồn tại và phát triển không tách rời nhân loại, nên giai
cấp, dân tộc và nhân loại luôn có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ biện
chứng giữa giai cấp, dân tộc và nhân
loại được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai
cấp, lợi ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc. Trong xã hội
có giai cấp, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định tất yếu hình thành các quan hệ
giai cấp, dân tộc. Giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất còn phù hợp
với quy luật vận động của lịch sử không những là đại biểu cho lợi ích chân
chính của dân tộc, mà còn có vai trò to lớn thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh
nhân loại. Ngược lại, khi giai cấp thống trị dân tộc trở lên lỗi thời, phản
động, thì lợi ích của nó về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và
lợi ích toàn nhân loại.
Tuy nhiên, vấn đề nhân loại không phải bị chi phối một cách thụ động bởi
vấn đề dân tộc và giai cấp, mà có vai trò tác động trở lại rất quan trọng.
Trước hết, sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điều kiện tất yếu thường
xuyên của sự tồn tại dân tộc và giai cấp. Sự phát triển của thế giới mà
trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội nói chung đã tạo ra
những tiền đề quan trọng cho con người cải tạo tự nhiên và xã hội, phục vụ cho
cuộc sống của mình.
Tác động của nhân loại đến dân tộc và giai cấp còn được thể hiện ở chỗ, sự
phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp. Lịch sử đã khẳng định, sự phát
triển của nhân loại qua mỗi giai đoạn đã từng bước tác động to lớn đến phong trào
giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Sự phát triển đó tạo ra những điều
kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh của các giai cấp
tiến bộ, cách mạng để lật đổ ách thống trị của các giai cấp thống trị, phản
động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học, công nghệ
hiện đại và toàn cầu hoá hiện nay đang làm gay gắt thêm những vấn đề toàn cầu
của thời đại. Việc giải quyết tốt các vấn đề toàn cầu của thời đại sẽ tạo ra
tiền đề và điều kiện góp phần giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp hiện nay.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là
cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học để nhận thức và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại trong thời đại ngày nay. Đây
còn là cơ sở lý luận để đấu tranh, phê phán các quan điểm sai lầm của các học
giả tư sản và chủ nghĩa cơ hội về vấn đề này hiện nay.
Trong sự nghiệp
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi
ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước Việt Nam chính là đóng góp quan trọng vào phong trào cách
mạng thế giới và tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Để thực hiện được mục
tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cần
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.
Vận dụng sáng tạo lý luận về giai
cấp và đấu tranh giai cấp, về mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng
lợi, góp phần tích cực vào thực hiện tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
* Ý nghĩa đối với công tác Công an
Người cán bộ Công an phải nắm
chắc hệ thống lý luận, hiểu biết sâu sắc lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp,
vai trò là động lực phát triển xã hội của đấu tranh giai cấp.
Nhận diện quan điểm sai trái,
thù địch, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Không chủ quan, bị động, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp.
Tham mưu cho các cấp chính quyền
không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện các tổ chức, lực lượng
chống phá hệ tư tưởng Mác -Lênin, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trực tiếp đấu tranh với các thế
lực thù địch.
Vận dụng linh hoạt các hình thức
đấu tranh cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, vừa phục vụ tốt hội nhập quốc
tế, mở cửa, vừa đảm bảo tốt an ninh quốc gia, không gây trở ngại nhằm góp phần ổn
định, phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..
III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
Quan
điểm về nhà nước trong lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
kế thừa, bổ sung và phát triển đã đạt được giá trị khoa học khi giải thích hiện
tượng nhà nước.
a. Nguồn gốc của nhà nước
Ph.Ăngghen, trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước cho rằng,
nhà
nước là một phạm trù lịch sử: “Nhà nước tồn tại không
phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có xã hội không cần đến nhà nước, không có
một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả”[53].
Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn
đến sự dư thừa tương đối của cải,
xuất hiện chế độ tư hữu, còn nguyên
nhân trực tiếp đẫn tới sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều hòa được.
Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, để
duy trì trật tự xã hội trong vòng “trật tự” mà ở đó, địa vị và lợi ích của giai
cấp thống trị được đảm bảo.
b. Bản chất của nhà nước
Nhà nước ra đời trong điều kiện xã hội có mâu thuẫn giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Thông thường, giai cấp thống trị có quyền lực kinh
tế trong xã hội là giai cấp lập ra và sử dụng nhà nước như là công cụ để duy
trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp mình.
Như vậy, nhà nước,
về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế
nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp,
không có nhà nước đứng trên, đứng ngoài giai cấp. Nhà nước dù có tồn tại dưới
hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản
chất giai cấp.
c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước có ba đặc trưng cơ bản. Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một
vùng lãnh thổ nhất định: “… so với tổ chức huyết tộc trước kia (thị tộc hay bộ
tộc) thì đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân trong
quốc gia theo sự phân chia lãnh thổ…”[54].
Hai
là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên
nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên như: hệ thống chính quyền từ
trung ương tới cơ sở, lực lượng vũ trang, cảnh sát, nhà tù…
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp
luật là chủ yếu. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở là công cụ
triển khai thực hiện những chính sách của nhà nước.
Ba
là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính
quyền.
Để duy trì sự thống trị của mình thông qua hoạt động
của bộ máy nhà nước cần phải có nguồn tài chính. Nguồn tài chính được nhà nước
huy động chủ yếu là do thu thuế, sau đó là quốc trái thu được do sự cưỡng bức
hoặc do sự tự nguyện của công dân.
d.
Chức năng cơ bản của nhà nước
Nhà nước ra đời thực hiện nhiều chức năng: chức năng thống trị chính trị
của giai cấp và chức năng xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp chịu sự qui định bởi tính giai cấp của nhà
nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền
lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.
Chức
năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã
hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của
xã hội để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” theo quan điểm của giai
cấp thống trị.
Mối
quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của
nhà nước.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp thống trị giữ
địa vị quyết định, nó chi phối và định hướng chức năng xã hội của nhà nước. Tuy
vậy, chức năng xã hội của nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại
của nó. Nếu chính quyền nhà nước nào không chú ý tới chức năng xã hội thì sẽ
nhanh chóng đi tới sự sụp đổ.
Chức
năng đối nội của nhà nước là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy
trì trật tự xã hội thông qua các công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ
quan truyền thông, văn hóa, y tế, giáo dục,.. Chức năng đối nội được thực hiện
trong tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhằm đáp ứng và giải quyết
những nhu cầu chung của toàn xã hội thông qua lăng kính giai cấp của giai cấp
thống trị.
Chức
năng đối ngoại của nhà nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối
ngoại của giai cấp thống trị nhằm giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà
nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia,
đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục,..
của mình.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là
hai mặt của một thực thể thống nhất, hỗ trợ
và tác động lẫn nhau. Trong đó chức năng đối nội của nhà nước giữ vai trò chủ yếu. Làm
tốt chức năng đối nội, nhà nước mới có điều kiện để thực hiện tốt chức năng đối
ngoại. Khi chức năng đối ngoại được thực hiện tốt thì chức năng đối nội lại
càng có điều kiện phát triển.
e.
Các kiểu và hình thức nhà nước
Nhà
nước tồn tại rất phong phú và đa dạng. Để đễ nhận biết, cần phải phân loại
thành kiểu và hình thức của nhà nước.
Kiểu
nhà nước: căn cứ vào tính chất giai cấp của nhà nước có
thể phân biệt các kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô quý tộc, nhà nước phong kiến,
nhà nước tư sản, nhà nước vô sản. Các kiểu nhà nước trên cơ bản giống nhau ở
chỗ đều là công cụ thống trị của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, nhà nước vô sản
có sự khác biệt về chất với các kiểu nhà nước khác ở chỗ nó là nhà nước đặc
biệt, nhà nước của số đông thống trị số ít.
Hình
thức nhà nước:
là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương thức thực hiện quyền lực nhà
nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước thực chất là hình thức cầm
quyền của giai cấp thống trị.
Trong kiểu nhà nước
chủ nô quý tộc thời đại chiếm hữu nô lệ từng tồn tại nhiều hình thức nhà
nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ
nô, nhà nước cộng hòa dân chủ chủ nô. Dù là nhà nước dân chủ hay quân chủ thì về bản chất, đều
là công cụ thống trị của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp
cư dân khác trong xã hội.
Thời Trung cổ, nhà nước tồn tại dưới hình thức nhà nước phong kiến tập quyền vànhà nước phong kiến phân quyền. Trong hình thức nhà nước
phong kiến tập quyền thì quyền lực tập trung trong tay chính quyền trung ương,
đứng đầu là vua, hoàng đế. Nhà nước phong kiến phân quyền là hình thức nhà nước
mà ở đó, quyền lực bị phân tán bởi nhiều thế lực phong kiến cát cứ ở các địa
phương khác nhau. Chính quyền trung ương tồn tại chỉ trên danh nghĩa. Thực tế,
vua, hoàng đế chỉ là bù nhìn, không có thực quyền.
Về bản chất, dù tồn tại dười hình thức nào
thì nhà nước phong kiến vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc, là công
cụ thống trị giai cấp của giai cấp địa chủ, quý tộc.
Trong xã hội tư bản tồn tại nhiều hình thức nhà nước như:
chế độ cộng hòa, chế độ cộng hòa đại nghị, chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa
thủ tướng, chế độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi
chung,.. Các hình thức nhà nước
này dù có khác nhau về hình thức song, về bản chất đều là công cụ thống trị của
giai cấp tư sản đối với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Kiểu
nhà nước vô sản là kiểu nhà nước “đặc biệt”. Trong kiểu nhà nước vô sản,
giai cấp vô sản liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ và
nhân dân lao động, sau khi tiến hành đấu tranh cách mạng giành chính quyền nhà
nước, thiết lập nền chuyên chính của mình.
Nền
chuyên chính vô sản (nhà nước vô sản) có chức năng cơ bản là xây dựng một
trật tự xã hội mới, thủ tiêu chế độ người áp bức bóc lột người, đập tan sự phản
kháng của các thế lực phản động đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt, vẫn
ngoan cố chống lại chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Để thực hiện tốt chức năng tổ chức, xây dựng và chức năng
trấn áp, phải thực hiện nguyên tắc dân chủ của nền dân chủ vô sản. Phát triển
và hoàn thiện nền dân chủ vô sản cũng có nghĩa là phát triển hoàn thiện nhà nước
vô sản. Theo quan điểm mácxít, đến một lúc nào đó, khi nhà nước vô
sản đã hoàn thành chức năng của nó, khi nền kinh tế và trình độ phát triển xã
hội đến giai đoạn cao: “Giai đoạn cộng sản chủ nghĩa”, xã hội tồn tại theo một
trật tự mới theo nguyên tắc “tự giác”, thì lúc đó nhà nước “tự tiêu vong”.
Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời chấm dứt sự tồn tại của nhà nước thuộc địa nửa phong kiến, mở ra một
trang sử mới của sự phát triển nhà nước.
Hiện nay, Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh một số đặc trưng
cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tồn tại theo nguyên tắc: “Đảng
lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Bản chất của hình thức nhà nước
này là: “nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Về bản
chất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”[55].
Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị. Để
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng
sản việt Nam chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới thể chế, cơ chế,
tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước, thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo, năng động, thực hành
tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, từng bước thực hiện chính phủ điện tử,..
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là góp phần thực hiện mục tiêu:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
2. Cách mạng xã hội
a. Nguồn gốc của cách
mạng xã hội
Cách
mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, nó có nguồn gốc sâu xa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi
hỏi được giải phóng, phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu đang
là trở ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Biểu hiện dưới dạng xã
hội của mâu thuẫn này là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị với giai cấp thống trị.
Khi
mâu thuẫn đó trở lên gay gắt,
quyết liệt đòi hỏi được
giải quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội. Khi cách mạng xã hội nổ ra, thì xã
hội cũ bị xóa bỏ. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cách mạng xã
hội.
b.
Bản chất của cách mạng xã hội
Theo
học thuyết Hình
thái kinh tế - xã hội của C.Mác thì cách mạng xã hội là sự thay đổi có tính
chất căn bản về chất của một hình thái kinh tế - xã hội, là phương thức thay
đổi từ một hình thái kinh tế -xã hội này lên một hình thái kinh tế - xã hội
mới, tiến bộ hơn.
Theo
nghĩa hẹp, cách
mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh lật
đổ chính quyền, thiết lập một chính quyền mới tiến bộ hơn.
Cách
mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội.
Nếu cách mạng xã hội được thực hiện là do bước nhảy đột biến, làm thay
đổi về chất, thay đổi toàn bộ đời sống xã hội thì tiến hóa xã hội là sự thay
đổi dần
dần,
thay đổi từng bộ phận, lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cách
mạng xã hội khác với cải cách xã hội.
Cải cách xã hội chỉ tạo lên những thay đổi bộ phận, lĩnh vực riêng lẻ của đời
sống xã hội. Cải cách xã hội là kết quả đấu tranh của các lực lượng xã hội tiến
bộ, nhiều khi cải cách xã hội là bộ phận hợp thành của cách mạng xã hội. Khi
các cuộc cải cách xã hội được thực hiện thành công ở những mức độ khác
nhau,chúng đều tạo ra sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ.
Cách mạng xã hội khác với đảo chính. Đảo chính là phương thức tiến hành của một nhóm người
với mục đích giành chính quyền song không làm thay căn bản chế độ xã hội.
Nói đến bản chất của cách mạng xã hội cũng cần phải nói
tới lực lượng cách mạng xã hội.
Lực lượng cách mạng xã hội là
những giai cấp, tầng lớp người có lợi ích gắn bó với cách mạng, tham gia vào
các phong trào cách mạng đang thực hiện mục đích của cách mạng. Lực lượng của
cách mạng xã hội chịu sự qui định của tính chất, điều kiện lịch sử của cách
mạng. Cuộc cách mạng tháng Tám ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo,
lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ
và đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Trong
lực lượng cách mạng có giai cấp giữ vai trò quyết định thành công của cách
mạng, được xem là động lựccủa cách mạng.
Động
lực cách mạng là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài
đối với cách mạng, có tính tự giác, tích cực, chủ động, kiên quyết, triệt để
cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác tham gia
phong trào cách mạng.
Mỗi cuộc cách mạng đều có mục đích là đánh đổ giai cấp
nào để giành lấy chính quyền. Để làm được điều đó cần xác định rõ đối tượng của
cách mạng xã hội là giai cấp nào?
Đối
tượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và những lực lượng đối lập cần phải đánh
đổ của cách mạng.
Để cách mạng đi đến thành công, cần thiết phải có giai
cấp lãnh đạo cách mạng. Giai cấp lãnh đạo
cách mạng xã hội là giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ, đại diện cho xu hướng
phát triển của xã hội, cho phương thức sản xuất tiến bộ.
Cách mạng xã hội diễn ra rất phong phú đa dạng. Điều đó
phụ thuộc vào điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng cách mạng
xã hội.
Điều
kiện khách quan của cách mạng xã hội là điều kiện, hoàn cảnh kinh tế -
xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến, là tiền đề diễn ra các cuộc cách mạng
xã hội.
Về kinh tế, khi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
mâu thuẫn gay gắt với nhau, làm cản trở sự phát triển của phương thức sản xuất,
cũng có nghĩa là cản trở sự phát triển của cả hình thái kinh tế - xã hội, của
cả xã hội. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng xã hội.
Về điều kiện chính trị - xã hội, khi khủng hoảng kinh tế
diễn ra, mâu thuẫn xã hội biểu hiện tập trung ở mâu thuẫn giai cấp, dẫn đến
khủng hoảng chính trị, xuất hiệntình thế cách mạng.
Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn gay gắt
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
sự phát triển đến đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp dẫn tới những đảo lộn
sâu sắc trong nền tảng kinh tế - xã hội của nhà nước đương thời.Tình thế cách
mạng là một trạng thái đặc biệt của điều kiện khách quan, không phụ thuộc vào ý
chí của các giai cấp, tập đoàn, đảng phái chính trị riêng biệt. Không có tình
thế cách mạng thì cách mạng xã hội không thể nổ ra được.
Để cách mạng xã hội nổ ra thì bên cạnh điều kiện khách
quan còn có nhân tố chủ quan.
Nhân
tố chủ quan trong cách mạng xã hội bao gồm ý chí, niềm tin, trình độ
giác ngộ và nhận thức của lực lượng cách mạng vào mục tiêu và nhiệm vụ cách
mạng, là năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ cách mạng, khả năng tập hợp lực
lượng cách mạng của giai cấp lãnh đạo cách mạng. Khi có điều kiện khách quan
chín muồi, thì nhân tố chủ quan có vai trò quyết định thành bại của cách mạng.
Để cách mạng xã hội nổ ra thành công, giai cấp lãnh đạo
phải biết chọn đúng thời cơ cách mạng.
Thời
cơ cách mạng là thời điểm đặc biệt khi điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan của cách mạng xã hội đã chín muồi, đó là lúc thuận lợi nhất có thể
bùng nổ cách mạng, có ý nghĩa quyết định đối với thành công của cách mạng.
Mục
tiêu của cách mạngxã hội là giành chính quyền bằng cách đập tan chính quyền đã
lỗi thời, phản động, cản trở cho sự phát triển của xã hội, thiết lập một trật
tự xã hội mới tiến bộ hơn. Để thực hiện được mục tiêu cách mạng cần có các hình
thức và phương pháp cách mạng phù hợp.
Phương pháp cách mạng
bạo lựclà hình thức tiến hành cách mạng thông qua bạo lưc để
giành chính quyền, là hành động của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của
giai cấp lãnh đạo cách mạng vượt qua giới hạn luật pháp của giai cấp thống trị
hiện thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, bạo lực chỉ là công cụ,
phương tiện để lực lượng cách mạng giành lấy chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị.
Phương pháp hòa bình là phương pháp đấu tranh không dùng bạo lực cách mạng để
giành chính quyền trong điều kiện cho phép. Phương pháp hòa bình là phương pháp
đấu tranh nghị trường, thông qua chế độ dân chủ, bằng bầu cử để giành đa số ghế
trong nghị viện và trong chính phủ. Phương pháp hòa bình chỉ có thể xảy ra khi
có đủ các điều kiện. Một là, giai cấp
thống trị không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc còn bộ máy bạo lực, nhưng chúng
đã mất hết ý chí chống lại lực lượng cách mạng. Hai là, lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù.
Phương pháp hòa bình rất có lợi, vì ít gây đau khổ, cho
nên dù điều kiện để giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình ít khi xảy ra,
song cũng cần làm tất cả nếu có điều kiện thuận lợi.
Hiện nay ở Việt
Nam, các thế lực phản động ở trong và ngoài nước chủ trương âm mưu “diễn biến
hòa bình”. Trong xã hội, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” không phải là
không có ở ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần phải nhận diện và kiên
quyết đấu tranh.
d.
Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay
Thời
đại ngày nay gắn
với những đặc điểm nổi bật đó là: cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, nền kinh tế tri thức ở các nước phát triển, xu hướng đối thoại thay cho
xu hướng đối đầu, những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại phần nào “làm
dịu” mâu thuẫn giai cấp, sự xung đột về giai cấp vẫn còn song không gay gắt như
thế kỷ XIX - XX, thay vào đó là sự xung đột về kinh tế, sắc tộc, tôn giáo giữa
các quốc gia, khu vực. Cùng với đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, nạn đói và bệnh tật ở nhiều nước,..cũng là những nguyên
nhân tạo ra sự bất ổn trong thế giới đương đại. Những mâu thuẫn xã hội trong xã
hội hiện đại tiềm ẩn khả năng những biến động xã hội theo chiều hướng tiến bộ
dưới hình thức cải tổ, cải cách, đổi mới như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây và những hình thức hợp tác mới trên cơ sở các lực lượng xã hội có thể chấp
nhận được ở các nước theo các xu hướng chính trị khác nhau hiện nay.
Vì
lợi ích chung của toàn thế giới, các nước có chế độ xã hội và chính trị khác
nhau đều
lựa chọn cách giải quyết những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ, lãnh
hải, tài nguyên thiên nhiên,.. và những bất đồng khác theo phương thức
đối thoại, hòa giải.
Xu
hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc, không phụ thuộc và không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và
tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế.
Các
quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã hội dân chủ, tự do, công bằng, văn minh theo
cách đi của mình thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa,
giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ. Và do đó, dù không có các cuộc cách
mạng xã hội điển hình như đã từng diễn ra trong lịch sử, thì các quốc gia dân
tộc trên thế giới sẽ phát triển dần dần theo hướng thay đổi từng bộ phận, từng
yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thay đổi trước hết về lực lượng sản
xuất do cách mạng khoa học - công nghệ mang lại, rồi đến thay đổi quan hệ sản
xuất, từ đó dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội tức cơ sở hạ tầng, và do đó
thay đổi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội, dẫn đến thay đổi toàn bộ
xã hội.
IV. Ý THỨC
XÃ HỘI
Hai
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh
thần hay đó chính là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trong triết học Mác –
Lênin thì ý thức xã hội gắn liền với tồn tại xã hội, đây là nôi dung cơ bản,
đánh dấu sự đối lập căn bản giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm
về xã hội. V.I.Lênin đã bắt đầu từ nguyên lý này khi trình bày hệ thống những
quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác: “Nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ không
triệt để, chưa hoàn bị và phiến diện nên Mác cho là cần phải “làm cho khoa học
xã hội phù hợp với cơ sở duy vật, và dựa vào cơ sở đó để cải tạo khoa học ấy”.
Nếu nói chung, chủ nghĩa duy vật lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức chứ
không phải ngược lại, thì khi áp dụng vào đời sống xã hội của loài người, nó
buộc phải lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội”[56]
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ
bản của tồn tại xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã
hội
Tồn
tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật
chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Hoạt vật chất là những hoạt động xã hội khách quan, hoạt động lao động, sản
xuất, hoạt động quan hệ trong quá trình sản xuất đang diễn ra xung quanh con
người, các hoạt động đảm bảo cho xã hội loài người tồn tại và phát triển. Sản
xuất vật chất chính là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển xã hội.
b. Các yếu tố cơ bản
của tồn tại xã hội
Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm
3 yếu tố chính: phương thức sản xuất vật
chất, điều kiện tự nhiên - địa lý và dân số và mật độ dân số.
Phương thức sản xuất là cách thức làm ra của cải vật
chất của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi xã hội được đặc
trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định, sự thay thế kế tiếp nhau của các
phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người
từ thấp đến cao. Trong Lời tựa cuốn
Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết: “Phương thức sản xuất
đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái
lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[57]
Điều kiện tự nhiên - địalý là điều kiện địa lý, khí hậu,
tài nguyên thiên nhiên... được hiểu với nghĩa là môi trường sống của con người.
Điều kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất xã hội với tư cách tư liệu sản
xuất chi phối hiệu quả, năng xuất lao động xã hội. Vậy môi trường tự nhiên là
môi trường sống tất yếu và thường xuyên chi phối và tác động tới sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Dân số và mật độ dân số là số lượng dân cư, mật độ dân
số, trình độ dân cư và tốc độ gia tăng dân số. Là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự
cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, đến điều kiện sức lao động của PTSX, đến cơ
cấu sản xuất. Đây là điều kiện thương xuyên, tất yếu của sự phát triển xã hội,
nhưng không giữ vai trò quyết định sự phát triển triển của xã hội. Bản thân vấn
đề dân số diễn ra theo quy luật tự nhiên, nhưng nó lại bị điều chỉnh bởi quy luật
xã hội, chịu sự tác động tích cực của chế độ xã hội, của phương thức sản xuất.
Ba yếu tố
phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên – địa lý, dân cư tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn
và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ
bản nhất và quan trọng nhất. Vì đó là cách thức làm ra của cải vật chất cho xã
hội, con người muốn tồn tại và phát triển thì cần phải lao động sản xuất, tạo
ra của cải để duy trì sự tồn tại và phát triển hay nói cách khác phương thức
sản xuất vật chất là yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài
người, còn điều kiện tự nhiên và dân cư là nhân tố tác động tới sự phát triển
xã hội.
2.
Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
a. Khái niệm ý thức xã
hội
Ý thức xã hội là phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trong lĩnh vực xã hội. Ý thứ xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,
là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội
Ý thức xã hội chỉ các phương diện sinh
hoạt tinh thần như: tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng…Ý
thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,một bộ phận hợp thành của văn
hóa tinh thần nó nảy sinh và xuất phát trên cơ sở tồn tại xã hội, phản ánh tồn
tại, do tồn tại xã hội sinh ra, mang dấu ấn đặc trưng của hinh thái kinh tế -
xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
b. Kết cấu của ý thức xã hội
Khi nhấn mạnh tính chất xã hội của ý
thức, chủ nghĩa duy vật lịch sử không phủ nhận những đặc điểm của ý thức cá
nhân, thừa nhận sự tồn tại ý thức cá nhân trong xã hội. Ý thức xã hội và ý thức
cá nhân có quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau cùng phản ánh tồn tại xã hội,
song không đồng nhất với nhau.
Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của
các cá nhân riêng biệt, cụ thể, phản ánh những điều kiện vật chất những đặc
điểm trong đời sống riêng của những con người cụ thể.
Ý
thức của cá nhân chỉ thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng
đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định. Ý thức xã hội và ý thức
cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào
nhau và làm phong phú nhau. Ý thức xã hội được hình thành trên cơ sở ý thức cá
nhân nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức cá nhân và càng không phải là ý thức
cá nhân.
- Tùy thuộc vào góc độ xem xét, người ta thường
chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận, tâm lý
xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Ý
thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày
Là
toàn bộ những tri thức, những quan niệm của con người trong một cộng đồng nhất
định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa
được hệ thống, khái quát thành lý luận.
Ý
thức thông thường bao gồm như: tâm lý xã hội, tri thức kinh nghiệm đời thường.
Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động trực tiếp cuộc sống hàng ngày nhưng
trình độ phản ánh thấp, là sự phản ánh trực tiếp
sinh động, phong phú và toàn vẹn của quan niệm
sống. Ý thức xã hội thông thường là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung khoa học lý luận của
ý thức xã hội.
Ý
thức lý luận
Là những tư tưởng,
quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được
trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận có khả
năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác,
vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Ý thức lý luận đạt
trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
Tâm
lý xã hội
Là toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng,
khát vọng, ý chí, phong tục tập quán... của những người, cộng đồng người nhất
định, phản ánh trực tiếp và tự phát hoàn cảnh sống của họ.
Tâm lý xã hội là ý thức thông thường,
phản ánh một cách trực tiếp có tính chất tự phát những điều kiện sống hàng ngày
của con người, cho nên nó chỉ ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội mà
không có khả năng vạch ra các mối quan hệ bản chất mang tính vật chất của con
người, những nguyên nhân sản sinh ra quan hệ đó.
Tâm lý xã hội mang tính chất kinh nghiệm
chưa được thể hiện về mặt lý luận, thường có sự đan xen giữa trí tuệ và tình
cảm. Tuy
nhiên không thể phủ nhận vai trò của tâm lý xã hội trong sự phát triển của ý thức
xã hội, nó là nhân tố ghóp phần điều chỉnh hành vi hàng ngày của con người.
Hệ
tư tưởng xã hội là giai đoạn phát triển cao của ý thức xã
hội. Là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội: chính trị, triết học,
đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo... là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với
tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, về tất
cả các mặt của đời sống xã hội.
Song hệ tư tưởng có thể là hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng
không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan của các mối
quan hệ vật chất của xã hội và những quy luật xã hội có tác dụng hướng dẫn hoạt
động thực tiễn của quần chúng, phù hợp với lợi ích của quần chúng nhân dân và
yêu cầu của lịch sử thì hệ tư tưởng của giai cấp đó có khả năng phản ánh đúng đắn
hiện thực khách quan. Hệ tư tưởng không khoa học phản ánh các mối quan hệ vật
chất xã hội nhưng dưới một hình thức sai lầm, hoặc xuyên tạc.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng tuy là hai trình độ, hai
phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ,
tác động lẫn nhau, chúng đều chung một nguồn gốc, cùng phản ánh tồn tại xã hội.
Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi, hoặc gây trở ngại cho sự hình thành,
truyền bá, tiếp thu của con người đối với hệ tư tưởng nhất định, là điều kiện
để hệ tư tưởng thâm nhập vào đời sống xã hội. Hệ tư tưởng lý luận gia tăng yếu
tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát
triển theo chiều hướng đúng đắn, thúc đẩy xã hội phát triển. Hệ tư tưởng phản
khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát
triển.
-
Các
hình thái ý thức xã hội
Ý thức
xã hội bao
gồm nhiều hình thái ý thức khác nhau như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức lý luận (hay
ý thức khoa học), ý thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ thuật), ý thức tôn giáo. Sự
phong phú của các hình thái ý thức xã hội phản ánh sự phong phú của đời sống xã
hội.
* Ý thức chính trị
Hình thái ý thức chính trị phản ánh các mối quan hệ kinh
tế của xã hội cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia... Khi xã hội xuất hiện giai
cấp và nhà nước thì ý thức chính trị được thể hiện trực tiếp và rõ nhất lợi ích giai cấp.
Ý thức chính trị thể hiện qua cương lĩnh chính trị, trong đường lối và các chính sách
của đảng chính trị, pháp luật của nhà nước, đồng thời cũng là công cụ thống trị
xã hội của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển các mặt của đời sống xã hội; ngược lại, hệ tư tưởng chính trị lạc
hậu, phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển đó.
Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân là hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng và khoa học đang dẫn dắt giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tiến
tới xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
* Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức
chính trị, ra đời trong xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó cũng mang tính
giai cấp. Do pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị thể hiện thành luật lệ
cho nên trong xã hội có giai cấp đối kháng thì thái độ và quan điểm của các
giai cấp khác nhau đối với pháp luật cũng khác nhau.
Ý thức
pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và
vai trò của pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của các
tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi
con người trong xã hội.
* Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt,
xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những
quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các
cá nhân với với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.Sự phát triển của hình thái
ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển của xã hội. Nó phản ánh tồn tại xã
hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người.
Trong các xã hội có giai cấp, những nội dung chủ yếu của
đạo đức mang tính giai cấp.Giai cấp nào trong xã hội đang đi lên thì đại diện
cho xu hướng đạo đức tiến bộ trong xã hội. Ngược lại, giai cấp đang đi xuống, lụi
tàn hoặc phản động đại diện cho đạo đức suy thoái.
Hiện nay, trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn cầu hóa, làm
cho sự tác động và ảnh hưởng không
nhỏ của nhiều loại đạo đức khác nhau trong xã hội lên
con người. Bên cạnh việc kế thừa
và duy trì, phát huy các giá trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống của dân tộc,
đồng thời phê phán lên án những
yếu tố tiêu cực, biểu hiện suy thoái các giá trị đạo đức đó là thói ích kỷ, tính thực dụng,
lòng tham lam, lợi ích các nhân, không trung thực, thiếu lý tưởng.
* Ý thức nghệ thuật hay ý thứcthẩm mỹ.
Ý thức nghệ thuật, hay ý thức thẩm mỹ
là hình thức phản ánh thế giới bằng
hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái
chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện tượng, cái
phổ biến trong cái cá biệt nhưng mang tính điển hình.
Thông qua nghệ thuật nó phản ánh hiện thực xã hội
nhưng không phải một cách trực tiếp, C.Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh
nhất định của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội,
do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ
sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội”[58].
Trong xã hội có phân chia giai cấp thì nghệ thuật mang
tính giai cấp và chịu sự chi phối của các quan điểm chính trị, của các quan hệ
kinh tế. Tuy nhiên, cũng như hình thái ý thức đạo đức, nghệ thuật và ý thức thẩm
mỹ vẫn có những yếu tố mang tính toàn nhân loại, do vậy mà nhiều nền nghệ thuật,
nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở các
giai đoạn lịch sử khác nhau,trở thành những giá trị văn hóa chung tiêu biểu,
trường tồn và vô giá của nhân loại. Nghệ thuật tiến bộ đồng thời vừa phục vụ
cho dân tộc mình, vừa phục vụ cho cả nhân loại; vừa phục vụ cho thế hệ hiện tại
lẫn cho cả các thế hệ tương lai.
* Ý thức tôn giáo
Theo các nhà triết học Mác tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện
thế giới quan của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác,
tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn
các quan hệ xã hội vào đầu óc con người. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế”[59].
Tiếp theo C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhấn mạnh nguồn gốc
xã hội của tôn giáo: “Trong các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, những nguồn gốc
ấy của tôn giáo chủ yếu là những nguồn gốc xã hội… “Sự sợ hãi đã tạo ra thần
linh”. Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, - mù quáng vì quần chúng
nhân dân không thể đoán trước được nó… đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại…”[60].
Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền
bù - hư ảo. Chính vì vậy nhiều khi mang tính chất tiêu cực, cản trở sự nhận thức
đúng đắn của con người về thế giới, về xã hội, về bản thân mình để rồi luôn
luôn bị các giai cấp thống trị lợi dụng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, muốn
xóa bỏ tôn giáo thì phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội của nó, đồng thời phải nâng
cao năng lực nhận thức, trình độ học vấn của con người.
* Ý thức khoa học
Ý thức khoa học là sự nhận thức
cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện tượng của hiện
thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các quá
trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội.
Ý thức khoa học có nhiệm vụ cao cả là hướng con người
vào việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống
nhiều mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Cùng với sự phát triển của
lịch sử nhân loại, vai trò của khoa học ngày một tăng lên, đặc biệt là trong
giai đọan hiện nay khi tri thức khoa học, cả tri thức về tự nhiên lẫn tri thức
về xã hội và về con người, đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khi
nhân loại bước vào thời đại phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và trí tuệ
nhân tạo, là cơ sở để giải quyết các vấn đề toàn cầu của thời đại.
* Ý thức triết học
Triết học nghiên cứu sự vận động, biến đổi,phát triển
của thế giới một cách tổng thể, nhất là triết học Mác - Lênin, cung cấp cho con
người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết toàn bộ lịch
sử phát triển của khoa học và của chính bản thân triết học. Vì vậy, khi đánh
giá mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định rằng, “xét từ
góc độ của tinh thần chúng ta có thể gọi triết học chính là cái cần thiết nhất”[61].
Triết học với thế giới quan và nhận thức khoa học là hạt
nhân tri thức giúp con người tìm hiểu thế giới xung quanh. Chẳng hạn, thế giới
này là gì? điểm khởi đầu và kết thúc là gì? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và
sự biến đổi đó? Con người là gì và sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với
thế giới ấy? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào
trong thế giới đó? v.v.. Như vậy, Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn
để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác;
để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy trong cuộc sống của xã hội
và để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.
c. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng có tính
giai cấp, sự khác nhau về điều kiện vật chất, lợi ích và địa vị xã hội khác
nhau, phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau
giữa các giai cấp. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Giai cấp nào chi phối những
tự liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh
thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất
tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”[62]
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã
hội cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có
tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội
này hoặc tập đoàn xã hội khác. Về mặt hệ tư tưởng tính giai cấp của ý thức xã hội
biểu hiện sâu sắc hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có quan
điểm tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và
giai cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Ý thức cá nhân trong xã hội có giai cấp, về bản chất,
là biểu hiện các mức độ khác nhau của ý thức giai cấp, do địa vị và những điều
kiện sinh hoạt vật chất chung của giai cấp quyết định. Ý thức xã hội không chỉ
mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp mà còn phản ánh
những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc, những điều kiện lịch sử, kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên hình thành trong quá trình phát
triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư
tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý, tình cảm, ước muốn, tập quán,
thói quen, tính cách... của dân tộc, phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của
dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân tộc.
3. Quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
thì tồn tại quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã
hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng vận động, sự biến đổi và
sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và
phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện đời
sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã
hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật,... tất yếu sẽ biến đổi theo.
Quan điểm
duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, hình thái
ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của
thời đại, nhưng nếu xét đến cùng thì các mối quan hệ kinh tế bao giờ cũng được
phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
b.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Quan điểm duy vật lịch sử về xã hội không
chỉ khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội mà còn làm sáng tỏ tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội. Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội được phân tích trên các phương diện chính sau dây:
- Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu
hơn tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,
do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Tuy
nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay
lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Lịch sử xã hội đã cho thấy,
trong nhiều trường hợp khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất đi rất lâu, song ý
thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn còn tồn tại, đặc biệt trong lĩnh vực tâm
lý xã hội (trong tư tưởng, truyền thống tập quán..). V.I.Lênin cho rằng: sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và
hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm nhất”[63]
Nguyên nhân làm cho ý thức xã hội lạc
hậu:
Một
là, ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã
hội. Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra nhanh hơn, ý thức xã hội
không phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu.
Hai
là, do sức mạnh của thói quen, truyền
thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội, đặc biệt
là những tư tưởng tôn giáo, những quan niệm chuẩn mực đạo đức, những tập tục..
Ba
là, do ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích
của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì
vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ
cố tình duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.
- Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt
trước tồn tại xã hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận
trong điều kiện nhất định ý thức xã hội, tư tưởng con người có thể vượt trước
tồn tại xã hội. Đó là những tư tưởng khoa học và triết học trong những điều
kiện nhất định có thể vượt trước thời đại rất xa. Lịch
sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian, có
thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận nhất là các dự báo khoa học,
dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của
con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát
triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, khả năng phản
ánh vượt trước của ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội, có nguồn từ
tồn tại xã hội.
Trong
thời đại ngày nay, CN Mác-Lênin với hệ thống lý luận khoa học vẫn là thế giới
quan và phương pháp luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi
lĩnh vực, nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa
Trong lịch sử phát triển ý thức xã hội
của một xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội
trước đó. Kế thừa
thể hiện tính tất yếu khách quan, tính tiến lên trong sự phát triển.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức
xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những
nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp
nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Giai cấp lỗi thời thì
tiếp thu khôi phục những tư tưởng phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước.
Quan điểm trên của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa
của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh
thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ
nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền
văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mácxít. Người viết:
“Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức
mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của
bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”[64].
Nắm vững quan điểm trên có ý nghĩa quan trọng đối với
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
- Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội
Các
loại hình thái ý thức xã hội phản ánh những mặt khác nhau, mỗi hình thái ý thức
xã hội phản ánh một mặt, một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn
tại xã hội. Trong quá trình phản ánh hiện thực, các hình thái ý thức xã hội
không thể thay thế cho nhau nhưng ảnh hưởng, xâm nhập vào nhau và đều tác động
trở lại tồn tại xã hội..
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông
thường ở mỗi thời đại tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình
thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý
thức khác tạo nên sự phát triển không đồng nhất với tồn tại xã hội.
Vì thế, khi xem xét
một hình thái ý thức xã hội nào đó chúng ta không chỉ chú ý đến các điều kiện
kinh tế - xã hội mà còn phải chú ý đến sự tác động của hình thái ý thức xã hội
khác.
- Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở lại
tồn tại xã hội.
Theo Ph.Ăngghen: "Sự phát triển về mặt chính trị,
pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v… đều dựa vào sự phát
triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến
cơ sở kinh tế”[65].
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội là một biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Sự tác động đó có thể theo hai khuynh hướng đối lập nhau:
Ý thức xã hội tích cực phản ánh đúng quy luật vận động
phát triển của xã hội, tư tưởng khoa học và tiến bộ góp phần thúc đẩy tồn tại
xã hội phát triển.
Ngược lại, nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản động sẽ cản
trở sự phát triển tồn tại xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối
với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào:
Những điều kiện lịch sử cụ thể; Tính chất của các mối
quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; Vai trò lịch sử của giai cấp mang
ngọn cờ tư tưởng; Mức độ phản ánh đúng đắn của
tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; Mức độ triển khai thực
hiện tư tưởng đó trong quần chúng v.v…
Do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng
tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự nghiệp phát triển xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử
phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội nói chung; nó bác
bỏ quan điểm siêu hình máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít về “tính quyết
định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội” là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử;
là một trong những cơ sở phương pháp luận cơ bản của hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
Ý nghĩa phương
pháp luận:
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống
nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, việc nhận thức các hiện tượng của
đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra
nó,
Mặt khác, cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ
những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng.
Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý
thức xã hội cũ; đồng thời cũng thấy rằng không chỉ biến đổi trong tồn tại xã hội
mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội
mà ngược lại, những sự tác động của đời sống tinh thần của xã hội, với những điều
kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại
xã hội.
- Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ nhất, phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn
hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với
quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Thứ hai, tránh sai lầm chủ quan
duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ
có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa
trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống
và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
V. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
Vấn đề
con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học, là đối tượng của nhiều
trường phái triết học khác nhau từ cổ đại đến hiện đại. Triết học Mác - Lênin kế thừa những thành tựu của
khoa học, những tư tưởng triết học đồng thời cũng đưa ra những nhận định khoa học
về vấn đề con người. Tại luận cương thứ 11 trong “Luận cương về Phoiơbắc”,
C.Mác viết: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”, về thực chất, chủ nghĩa Mác - Lênin
chính là học thuyết “cải tạo thế giới” để “giải phóng” con người, hướng tới mục
đích vì con người – chủ thể của lịch sử, xã hội, thể hiện bản chất cách mạng và
khoa học của hệ thống lý luận có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới.
1. Khái niệm con người và bản chất con người
a. Khái niệm con người
Có thể khẳng
định, lịch sử khoa học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử nghiên cứu
về con người. Tuy nhiên, mỗi lĩnh vực của khoa học tiếp cận vấn đề con người
theo một cách riêng, phù hợp với đối tượng đặc điểm của mình.
Các trường phái triết học
phương Đông và phương Tây từ xưa đến nay đều tìm luận giải vấn đề con người và
bản chất con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh.
Triết học Mác - Lênin đã kế thừa
quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người
hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự
nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại của con
người chính là giới tự nhiên.
“Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người,… đời sống thể xác và tinh thần
của con người gắn liền với giới tự nhiên”[66]. Về phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục
tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến
hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ
phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự
nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm
khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học
khác. Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự
nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự
nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.
Con người còn là một thực thể xã hội có các
hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động.
Chính lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người.
Nhờ có lao động, con người cải
tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động
đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở
thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết
và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương diện
sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người không chỉ có các
quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác.
Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động
qua lại giữa họ với nhau. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội
không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội, khác với hoạt động của con vật
chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và giao
tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có
thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động
và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của
con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một
trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội.
b. Bản chất con người
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những
điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát
triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội”[67].
Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá
trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội
đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế;
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội …) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình.
Khi nói bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần
hình thành bản chất con người, nhưng có ý
nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều
trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế
- xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính
kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người
trong giai đoạn lịch sử đó.
Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà
là bộ phận chi phối trong chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể
hiện bản chất của con người có khác biệt. Bản chất một con người cụ thể là tổng
hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định những đặc
điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của con người đó. Còn tất cả những hành vi của
người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự
thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà
thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội,
giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và
văn hoá xã hội... Trong diễn biến đầy mâu thuẫn đó, bản chất thể hiện ra như một
xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội.
Thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động xã hội, con người làm biến đổi đời sống
xã hội, đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là
thông qua hoạt động thực tiễn con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu
tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử -xã hội, không phải
là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội.
Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.
2. Hiện
tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người
a. Hiện
tượng tha hóa con người
Triết
học Mác - Lênin cho rằng hiện tượng tha hóa của con người là một hiện tượng lịch
sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân chia giai cấp. Tha hóa là quá
trình xã hội trong đó hoạt động của con người và sản phẩm của nó biến thành một
lực lượng độc lập thù địch và thống trị lại con người.
Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Nhưng tha hoá con người được đẩy lên cao nhất trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm hữu tư nhân tư
liệu sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản, một số ít trở
thành tư sản, chiếm hữu toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì vậy những
người vô sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để các nhà tư sản bóc
lột mình và sự tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là nội dung
chính yếu, là nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa của con người.
Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của
các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên
ở mức cao nhất trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó, sự
tha hóa của lao động còn được tạo nên bởi sự tha hóa trên
các phương diện khác của đời sống xã hội: Sự tha hóa của nền chính trị vì thiểu
số ích kỷ, sự tha hóa của các tư tưởng của tầng lớp thống trị, sự tha hóa của
các thiết chế xã hội khác. Chính vì vậy, khắc phục sự tha hóa là một quá trình lâu dài không
chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà còn gắn liền với
việc khắc phục sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Triết học Mác - Lênin
chính là lí luận triết học về khắc phục sự tha hóa của con người, trước hết là
lí luận giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
b. Vấn đề giải phóng con người
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt
lõi của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người. Mục
đích cao cả mà C.Mác và Ph. Ăngghen ngày từ đầu hướng đến khi xây dựng học thuyết
của mình chính là giải phóng con người. Tiền đề nghiên cứu của hai ông là xuất
phát từ con người hiện thực. Theo
quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, việc giải phóng những
con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới
giải phóng toàn thể nhân loại. Việc giải phóng con người được quan niệm một
cách toàn diện, đầy đủ, ở tất cả các nội dung và phương diện của con người, cộng
đồng, xã hội và nhân loại với tính cách là các chủ thể ở các cấp độ khác nhau.
Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải
phóng con người trên tất cả các nội dung và các phương diện: con người cá nhân,
con người giai cấp, con người dân tộc…
Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định khắc phục sự tha hóa trong
phân công lao động xã hội và sự phát triển của chế độ tư hữu sẽ là quá trình giải
phóng con người sẽ thành hiện thực. Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã
hội, cá nhân với giai cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất của con người là tổng
hòa các quan hệ xã hội. Do vậy, tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện cho sự
phát triển tự do của mọi người.
Ngày nay,
nghiên cứu vấn đề giải phóng con người, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp
tục là cơ sở, tiền đề mang tính khoa học và cách mạng, là những chỉ dẫn soi đường
cho phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Thực chất của triết học Mác -
Lênin là học thuyết giải phóng con người, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội
loài người.
3. Quan
hệ cá nhân và xã hội; vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
a. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá
nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được
phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
Khái niệm cá nhân cũng được phân biệt với khái niệm con người vì con người, xét cả về thực thể sinh học lẫn thực thể xã hội,
vừa mang bản chất loài lẫn tính đặc thù cá thể. Nó vừa là một vũ trụ thu nhỏ,
riêng biệt, độc đáo, lại vừa mang đặc điểm chung, phổ biến của loài.
Xã
hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các nhóm, cộng
đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. Yếu tố xã hội là
đặc trưng cơ bản để hình thành cá nhân.
Cá nhân và xã hội không tách rời nhau. Cá
nhân là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến,
là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện
các chức năng riêng biệt và chức năng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Quan hệ cá nhân – xã hội là tất yếu, là tiền đề và điều
kiện tồn tại và phát triển của cả cá nhân lẫn xã hội. Đương nhiên, quan hệ ấy
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào trình độ phát triển xã hội và của từng
cá nhân, đặc biệt là phụ thuộc vào bản chất của xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội
là khác nhau trong xã hội có phân chia giai cấp và xã hội không phân chia giai
cấp. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử,
phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết
định đối với các nhân. Bởi vì, các tổ chức xã hội được tạo nên nhằm giải quyết
quan hệ lợi ích cho mỗi cá nhân khi tác động đến các lĩnh vực khác nhau. Xã hội
càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những
giá trị vật chất và tinh thần. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi
ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Bất kể vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp,
nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và
động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lại tốt đẹp.
b. Vai trò của
quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
Quá
trình vận động và phát triển của lịch sử loài người diễn ra thông qua hoạt động
của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ
chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Căn cứ vào mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội
và giai cấp khác nhau.
Theo quan điểm triết học Mác -
Lênin, quần chúng nhân dân là thuật ngữ chỉ tập hợp đông đảo những con người hoạt
động trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm nhiều thành phần, tầng
lớp xã hội và giai cấp đang hoạt động trong một xã hội xác định. Đó có thể là
toàn bộ quần chúng nhân dân của một quốc gia, một khu vực lãnh thổ xác định. Họ
có chung lợi ích cơ bản liên hiệp với nhau, chịu sự lãnh đạo của một tổ chức, một
đảng phái, cá nhân xác định dể thực hiện những mục tiêu kinh tế, chính trị, văn
hóa hay xã hội xác định của một thời kỳ lịch sử nhất định. Nội hàm của khái niệm
quần chúng nhân dân bao gồm: Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần là lực lượng căn bản, chủ chốt; Toàn thể dân cư đang chống lại những
kẻ áp bức, bóc lột thống trị và đối kháng với nhân dân; Những người đang có các
hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần vào
sự biến đổi xã hội. Với nội dung đó quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử
thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể của các quốc gia, khu vực.
* Vai trò của quyết định lịch sử của quần
chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung:
Thứ
nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân
dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân
đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng
thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Trong
mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên. Để trở thành lãnh tụ, bên
cạnh việc là một cá nhân kiệt xuất thì cần phải gắn bó với quần chúng, được quần
chúng tín nhiệm và nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân
dân. Bất cứ một thời điểm lịch sử nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những
nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ
xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Lênin viết: “Trong lịch sử,
chưa hề có một giai cấp nào giành được chính quyền thống trị, nếu nó không được
đào tạo trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền
phong đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[68].
* Mối quan
hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ:
Mối
quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là biện chứng, vừa thống nhất vừa
khác biệt. Tính biệt chứng được biểu hiện như sau:
Một
là, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào
cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị,
xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ.
Hai
là, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của
mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa
quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định.
Ba
là, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò
khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định
sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự
phát triển của lịch sử.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ có ý nghĩa phương pháp luận rất
quan trọng. Lãnh tụ có vai trò quan trọng, nhưng không thể tuyệt đối hóa vai
trò của họ dẫn đến tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ, coi nhẹ quần
chúng nhân dân, hạn chế việc phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng
nhân dân, phải chống lại tệ sùng bái cá nhân. Ngược lại, việc tuyệt đối hóa vai
trò của quần chúng nhân dân, xem nhẹ vai trò của các cá nhân và lãnh tụ sẽ dẫn
đến hạn chế, xem thường các sáng kiến cá nhân, những sáng tạo của quần chúng
nhân dân, không phát huy được sức mạnh sáng tạo của họ. Quần chúng nhân dân
luôn là người thầy vĩ đại của các cá nhân, lãnh tụ.
4. Vấn đề
con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
Con người
là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục đích cao nhất của triết học
Mác. Tư tưởng nhân văn, nhân đạo đó đã trở thành ánh sáng soi đường cho hành động
thực tiễn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc
đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Ngày nay, đối với
nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế, cùng với quá trình đổi mới toàn diện và đồng bộ, do vậy việc xây dựng
con người Việt Nam hiện đại là yêu cầu cần thiết và cấp bách.
Kế thừa những thành tựu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con
người phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[69]. Tư tưởng xem con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, của sự phát triển xã hội là tư
tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Trong suốt
quá trình hoạt động cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
vấn đề con người và phát triển con người. Người khẳng định:
Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành. Điều đó có nghĩa rằng theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do mới
chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải xây dựng một chế độ xã hội mới. “Tất
cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi
ách áp bức bóc lột, được sống sung sướng, tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản”[70].
“Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì”[71].
Đây chính là thực chất của tư tưởng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng, được Hồ Chí Minh phát triển từ lý luận về giải phóng con người của
chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người là sự vận dụng sáng tạo và
phát triển lý luận về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt
Nam trong bối cảnh mới của thời đại. Tư tưởng đó đã và đang là “kim chỉ nam”,
là nền tảng lý luận cho việc hoạch định các chủ trương chính sách về con người
và phát triển con người, cho việc điều hành và quản lý đời sống xã hội. Con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là nội dung cốt lõi, là tư
tưởng căn bản trong chiến lược phát triển con người của nước ta hiện nay. Điều
này cũng phù hợp với xu hướng chung của tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đã được
Liên Hợp Quốc chính thức vận dụng ở quy mô toàn cầu.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và xây dựng con người luôn luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào
trong quá trình xây dựng và phát triển con người trong thời kỳ đổi mới vừa qua,
thể hiện rõ và nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng.Một mặt, Đảng
ta nhấn mạnh việc đấu tranh không khoan nhượng chống thoái
hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo
đức, chống lại những thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con người Việt
Nam đang cản trở sự phát triển của chính con người và xã hội. Mặt khác,
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.
Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát
triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm
chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn
hóa, tình nghĩa; có tinh thần quốc tế chân chính”[72].
Nghị quyết
Trung ương 9 (khóa XI) xác định mục tiêu cụ thể trong xây dựng văn hóa, con
người Việt Nam là: “Chăm lo xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu
biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”[73]. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đề ra định hướng: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một
mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân, ý thức tuân thủ pháp luật... Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống
cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”[74]. Trong giai đoạn hiện
nay, xây dựng con người Việt Nam cũng chính là việc xây dựng nguồn nhân lực
“đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa”[75].
Qua các văn kiện,
các chiến lược, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước thời kỳ đổi mới có
thể tóm lược tư tưởng về xây dựng con người Việt Nam ở một số điểm chính sau: Con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển và cũng là chủ thể của
quá trình phát triển. Vì vậy, xây dựng con người là một nội dung quan trọng của
sự nghiệp cách mạng; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trên cơ
sở kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống, bồi đắp củng cố những giá trị
mới, khắc phục những hạn chế của con người việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới,
phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Xây dựng con người Việt Nam là
một quá trình gắn bó chặt chẽ với các quá trình phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ môi trường, thực hiện an sinh
xã hội...
- Đối
với lực lượng Công an nhân dân:
Hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Công an
nhân dân đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, mưu trí, dũng cảm, lập nên
nhiều chiến công to lớn; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực sự trở thành lực lượng vũ trang
trọng yếu, công cụ sắc bén, tin cậy của Đảng và Nhà nước. Một trong những yếu
tố cơ bản, quyết định sự lớn mạnh, trưởng thành của Công an nhân dân chính là
sự kiên định, vững vàng về bản lĩnh chính trị trước mọi biến cố của thời cuộc.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân được tạo thành bởi sự
giác ngộ chính trị cao, nhận thức sâu sắc về nền tảng tư tưởng, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; năng lực tư duy chính trị sắc sảo,
nhạy bén, khả năng nắm bắt nhanh chóng bản chất của sự vật, hiện tượng, có năng
lực phân biệt được đúng - sai, phải - trái để có thái độ ứng xử và phương pháp
giải quyết đúng đắn, phù hợp. Bản lĩnh chính trị còn được tạo thành bởi tình
cảm trong sáng, niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay",
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
"tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong nội bộ”,
tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ luôn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng
trước sự tấn công, mua chuộc của tội phạm và những tác động tiêu cực của môi
trường xã hội. Có thể khẳng định, trong mọi hoàn cảnh lực lượng CAND luôn thấm
nhuần lời dạy của Bác: "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục".
Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng đối với mỗi cán bộ chiến sĩ
CAND, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, tăng
cường đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước theo hướng chú trọng tính hiệu quả, khắc phục bệnh hình thức,
tránh giáo điều, gắn với những vấn đề mới của thời đại ngày nay và thực tiễn
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa...
Hai là, chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức về mọi mặt và năng lực
hoạt động thực tiễn của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là những kiến thức về pháp
luật, công nghệ thông tin, ngoại ngữ và kiến thức chung phổ quát nhất của quá
trình hội nhập quốc tế.
Ba là, nâng
cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của tổ chức đảng, cấp ủy, lãnh đạo Công an
các cấp trong việc giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ;
đồng thời, chú trọng chăm lo xây dựng, củng cố cơ quan, cán bộ làm công tác
chính trị tư tưởng, công tác xây dựng lực lượng vững mạnh.
Bốn là, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải
tích cực, tự giác rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện về mọi mặt,
đặc biệt là tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức; học tập, nâng
cao trình độ lý luận và kiến thức chuyên môn; nâng cao năng lực tổ chức hoạt
động thực tiễn, bảo đảm luôn vững vàng, kiên định, sáng tạo và đạt hiệu quả cao
trong công tác.
Năm là, đẩy
mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phòng, chống "diễn
biến hòa bình", "phi chính trị hóa" công an
nhân dân nhằm giữ vững trận địa tư tưởng, ngăn chặn, loại trừ những yếu tố tác
động làm lung lay tư tưởng và bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an.
VI.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ TRONG CÔNG TÁC CÔNG AN
1.
Lực lượng Công an nhân dân trong việc bảo vệ các giá trị của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội
Học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác là học thuyết “vĩ đại nhất” trong
triết học lịch sử - nó mang tính khoa học, cách mạng cho mọi thời đại, vạch ra
con đường khách quan và sự hiện diện tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản tương lai. Run sợ trước sự phát triển tất yếu của lịch sử, của lý luận
về sự thay thế nhau của các Hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử do Mác và
Ăngghen vạch ra. Các học giả tư sản, kẻ thù lý luận đang tập trung phá hoại nền
tảng tư tưởng, xuyên tạc, bóp méo hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
của Đảng ta. Vì vậy, người cán bộ công an cần phải có trình độ nhận thức và bản
lĩnh để đấu tranh đập tan các luận điệu đó.
- Người cán
bộ công an cần phải nắm chắc hệ thống lý luận, hiểu sâu sắc lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội, con đường phát triển chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa
chọn, bảo vệ nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay,
cụ thể là:
+ Nắm vững
và hiểu bản chất cách mạng, khoa học của sự phát triển, thay thế nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. C. Mác cho rằng: “Sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
+ Việt Nam
lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ bóc lột tư bản chủ
nghĩa là đúng đắn, hợp quy luật khách quan.
- Nhận diện
quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội.
+ Do ý thức
hệ của giai cấp thống trị, bóc lột có quan điểm đối lập về lợi ích và lập
trường giai cấp.
+ Nhào nặn
vô căn cứ các học thuyết, trào lưu triết học để biện hộ cho sự tồn tại của giai
cấp bóc lột, tuyên truyền, bác bỏ chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn như một số luận
điểm phản động như: Các thế lực thù địch cho học thuyết về lịch sử của chủ
nghĩa Mác là một phiên bản thế tục của thuyết quyết định luận.
Nói như vậy
là sai, phản khoa học vì “quyết định luận” của chủ nghĩa duy tâm khách quan cho
rằng: “ý chí” siêu thực, siêu nhiên nào đó quyết định mọi sự tồn tại, còn chủ
nghĩa Mác cho rằng cái quyết định sự vận động của xã hội là từ sản xuất vật
chất, từ điều kiện phát triển kinh tế sâu xa là giải quyết mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất tiến bộ, cách mạng với quan hệ sản xuất lạc hậu trong mỗi hình
thái kinh tế - xã hội.
Họ cho chủ nghĩa Mác là giấc mơ về xã hội không tưởng, nó đặt niềm tin
vào một xã hội hoàn hảo không có khổ cực đau buồn, không bạo lực và không mâu
thuẫn,...đó là cách nhìn nhận ngây thơ, ấu trĩ vào bản chất của con người.
Đó là luận
điệu xuyên tạc, phản khoa học. Mục tiêu của chủ nghĩa Mác là xóa bỏ mọi sự bất
công, bóc lột trong xã hội và như vậy phải xóa bỏ giai cấp bóc lột tiến tới xây
dựng một xã hội không có giai cấp. Vậy không phải là một giấc mơ mà là một hiện
thực khi giai cấp vô sản viết lên lá cờ của mình “làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu”. Những lý luận trên của các học giả tư sản chỉ biện hộ cho sự bóc lột
tối đa của bọn tư bản tài phiệt mà thôi
- Lực lượng
Công an nhân dân cần thực hiện tốt các chức năng cơ bản:
+ Tham mưu
cho các cấp chính quyền không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác phát
hiện các tổ chức, lực lượng chống phá hệ tư tưởng Mác - Lênin; chống phá chế độ
xã hội chủ nghĩa và lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
+ Trực tiếp
đấu tranh với các thế lực thù địch bằng các hình thức: Trực tiếp tiếp cận đối
tượng để đấu tranh; bố trí các lực lượng phản bác những tư tưởng sai trái; dùng
sức mạnh của quần chúng nhân dân...
+ Tăng cường
công tác bảo vệ rà soát, thanh lọc nội bộ, vô hiệu hóa ảnh hưởng của các tổ
chức, cá nhân có tư tưởng sai trái.
+ Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh; xây dựng
lòng tin trong cán bộ, chiến sĩ về sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, của hệ tư
tưởng Mác - Lênin để họ hết lòng bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo
vệ hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
2.
Lực lượng Công an nhân dân góp phần xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện
nay
Vận dụng lý luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử về ý thức xã hội, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất,
một mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không
làm việc xã hội chủ nghĩa được”(), Đảng ta đã xác định rõ nội dung cơ bản mang
tính đặc trưng của ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định những
vấn đề cơ bản nhằm xây dựng, phát triển, đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam
hiện nay với những nội dung sau đây: xác định văn hóa giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đó là: tăng trưởng kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục
và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Xác định
nền văn hóa mới là mục tiêu của xây dựng và phát triển kinh tế vì xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Xác định giáo dục đào tạo và
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu “phát triển giáo dục, đào tạo là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển kinh
tế - xã hội nhanh và bền vững”
Về phương thức xây dựng nền
tảng tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Đảng ta cũng
xác định thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt
chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Về
nguyên tắc xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng chỉ rõ quá trình xây dựng ý thức xã hội mới phải gắn với xây dựng nền kinh
tế mới, nền văn hóa mới và con người mới; phải kết hợp giữa “xây” và “chống”;
phải đảm bảo tính kế thừa; phải coi xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của
toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lực
lượng Công an nhân dân do Đảng ta xây dựng, giáo dục và rèn luyện, đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Do vậy, để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho trong đó có nhiệm vụ bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần xã hội
chủ nghĩa và đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, sai trái, phản
động còn tồn tại trong xã hội đỏi hỏi mọi mặt hoạt động của công tác Công an
cần dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
Trên
cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
chủ trương của Đảng, lực lượng Công an nhân dân luôn nhận thức rõ tầm quan trọng
của vấn đề xây dựng ý thức mới trong xã hội hiện nay ở nước ta, đồng thời phát
huy chức năng, nhiệm vụ của Ngành Công an trong việc góp phần xây dựng thành
công ý thức xã hội mới của xã hội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, lực lượng
Công an nhân dân cần làm tốt một số mặt công tác chủ yếu sau đây:
Trước
hết, lực lượng Công an nhân dân cần thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu
cho các cấp ủy Đảng và chính quyền, đề xuất các chủ trương, chính sách, các biện
pháp quản lý hiệu quả lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong đó hướng đến việc vấn đề
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phát huy, phát triển các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu, kế thừa những giá trị văn hóa tiên
tiến trên thế giới; đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa những văn hóa phẩm đồi trụy,
đi ngược với những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.
Thứ hai, tổ chức
tuyên truyền giáo dục đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước vào trong đời sống hiện thực, đảm bảo duy trì hoạt động thi hành
nghiêm chỉnh pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, từ đó tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa để xây dựng ý thức mới xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tích cực tuyên truyền các giá trị văn hóa tinh thần truyền
thống tốt đẹp trong nhân dân, phổ biến rộng rãi các giá trị văn hóa tiến bộ,
khoa học của thời đại mới tới đông đảo quần chúng nhân.
Thứ ba, lực lượng Công an nhân dân là lực lượng tiên phong trong đấu
tranh bảo vệ những giá trị truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt chống
“diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Hạn chế đến mức thấp nhất ảnh
hưởng tiêu cực của ý thức xã hội cũ, lạc hậu và những tiêu cực nảy sinh của mặt
trái cơ chế thị trường.
Thứ
tư, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội tạo điều kiện thuận lợi để
đất nước ta thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bởi lẽ, khi đời sống vật
chất được đảm bảo chính là cơ sở nền tảng để xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
tích cực, tiến bộ.
Thứ năm, phối hợp
tích cực, có hiệu quả với các Bộ, Ngành, địa phương nhằm đảm bảo thực hiện tốt
chủ trương của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
Thứ sáu, mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân là tấm gương trong giữ
gìn các giá trị văn hóa truyền thống, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, thực hiện tốt Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân. Xây dựng đời sống
tinh thần tiến bộ ngay trong lực lượng Công an nhân dân, thực hiện ở từng cán bộ,
chiến sỹ. Tăng cường phòng,
chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
3.
Phát huy nhân tố con người trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân hiện nay
Hồ Chí Minh khẳng định bản chất công an Việt Nam
khác công an đế quốc, bởi công an Việt Nam là Công an Nhân dân. Lực lượng Công
an là thanh bảo kiếm của Đảng; là cơ quan chuyên trách nhà nước đảm bảo an
ninh, trật tự; tham mưu, quản lý nhà nước, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp
luật; vì lợi ích của nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phẩm chất mà người Công an
cách mạng phải đạt được. Trong thư gửi Giám đốc Công an khu XII, Người đã viết:
“Tư cách người Công an cách mệnh là:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép
Đối với công việc, phải tận tụy
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.
Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà người
công an cách mệnh phải có, phải giữ cho đúng”[76].
Trong giai đoạn hiện nay, lực lượng Công an đang
góp phần tích cực trong xây dựng con người mới ở Việt Nam. Để thực hiện tốt
chức năng của mình trong góp phần xây dựng con người mới, lực lượng Công an cần
thực hiện một số nguyên tắc sau đây:
Một là, bảo đảm an ninh con người có quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Công an nhân dân là
lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, nòng cốt
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã
hội; bên cạnh đó cần tích cực tham gia bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người, thực hiện đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên
quốc gia, đảm bảo quyền con người; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Con người vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình
xây dựng xã hội mới. Lợi ích của con người luôn gắn liền với lợi ích của cộng
đồng, xã hội, gắn liền với sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân
tộc mà họ sinh sống. Thực tiễn cho thấy, khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm thì
an ninh con người cũng không thể bảo đảm. Chính vì vậy, giữ vững độc lập dân
tộc, an ninh quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm an ninh con người được
thực hiện và ngược lại an ninh con người được thực hiện chính là nhân tố tạo
nên sức mạnh trong bảo vệ độc lập dân tộc và an ninh quốc gia. Đảng ta xác
định: “... bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”[77],
là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Thành tố “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” bao gồm trong nó lĩnh vực quốc phòng và an
ninh, bởi dù là hai mảng công tác khác nhau song quốc phòng và an ninh đều
hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của
nhân dân.
Nghị quyết Đại hội
XII xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ tới trở
thành cơ sở, nền tảng vững chắc để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện tốt
việc bảo đảm quốc phòng và an ninh; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt
tiêu những nhân tố gây bất ổn định, hoặc các nhân tố gây “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” diễn ra trong nội bộ ta hoặc những nhân tố phát sinh đột biến, bất
lợi gây phương hại đến thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, an
toàn xã hội và an ninh con người.
Xây dựng con người
“thấm nhuần tinh thần dân tộc” là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện tốt
vấn đề an ninh cho con người mới ở Việt Nam.
Con người “thấm
nhuần tinh thần dân tộc” tức là mọi ý nghĩ, thái độ và hoạt động của con người
đều có tính dân tộc, mang bản sắc dân tộc. Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam
thấm nhuần tinh thần dân tộc là để con người Việt Nam biết đặt lợi ích của quốc
gia, dân tộc lên trên hết, là bao hàm trong đó cả tinh thần yêu nước, tự cường
dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là ý chí vươn lên đưa
đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Thấm nhuần tinh thần dân tộc là thể hiện
trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội,
dân tộc và đất nước; là tinh thần tự tôn dân tộc trong quan hệ quốc tế.
Trước những tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, một số
giá trị truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị mai một. Trong một vài thập
kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đã
xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng nông thôn.
Biểu hiện cụ thể chính là: “Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”[78]. Thực trạng đó đang đe dọa bảo vệ an ninh con
người ở Việt Nam. Với ý nghĩa như vậy, bảo vệ an ninh con người không thể thực
hiện được một cách hiệu quả, toàn diện khi những tinh hoa giá trị tinh thần dân
tộc không được tỏa sáng, trở thành hạt nhân nuôi dưỡng tâm hồn, cốt cách bảo
đảm cho con người Việt Nam được phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể,
mỹ. Theo đó, xây dựng con người “thấm nhuần tinh thần dân tộc” là điều kiện
quan trọng đảm bảo vấn đề an ninh con người được thực hiện tốt trong thực tiễn.
Bảo đảm an ninh con người luôn gắn kết với phát
triển toàn diện phẩm chất và năng lực.
Thành quả của hơn 30 đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Điều đó đã tạo động lực cho
nhân dân phát huy tinh thần tự chủ cũng như khơi dậy được ý thức tự lực, tự
cường trong mọi hoạt động, tự ý thức trong việc bảo vệ an ninh chính trị của
đất nước, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng. Tuy nhiên, để con người Việt Nam
phát huy tốt nhất ý thức tự chủ của mình thì mọi người dân phải được phát triển
toàn diện cả phẩm chất và năng lực. Phát triển phẩm chất và năng lực chính là
yếu tố quan trọng để con người Việt Nam nâng cao sức “đề kháng” biết tự bảo vệ
mình, bảo vệ cộng đồng, bảo vệ xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước và Tổ quốc. Với ý
nghĩa như vậy, đảm bảo vấn đề an ninh con người luôn cần được gắn kết chặt chẽ
với việc phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực.
Phát triển toàn diện con người là phát triển và
vận dụng được toàn bộ các năng khiếu thể lực và trí lực con người về mọi mặt,
theo đó Đảng ta chủ trương: “... xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách,
đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất;
nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp
luật; phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc”[79]. Sự bổ sung chuẩn mực giá trị con người Việt Nam
của Đảng thể hiện nhất quán mục tiêu chiến lược của thực tiễn về xây dựng con
người mới đang đặt ra; tạo thêm cơ sở khoa học, pháp lý để mọi tổ chức, tập
thể, cá nhân vận dụng vào xây dựng chuẩn mực giá trị con người Việt Nam thiết
thực, hiệu quả.
Xây dựng - bảo vệ - phát triển là một chu trình
thống nhất và quan hệ biện chứng không tách rời nhau, xây dựng phải bảo vệ, bảo
vệ để phát triển. Nói cách khác, vấn đề an ninh con người là vấn đề xuyên suốt
trong toàn bộ tiến trình xây dựng, phát triển toàn diện con người Việt Nam
trong thời kỳ mới. Quá trình xây dựng, phát triển sẽ không thể mang lại thành
công nếu không coi trọng đúng mức vấn đề an ninh con người. Do vậy, mọi sự coi
nhẹ, tách rời trong tổ chức thực hiện những yếu tố đó đều dẫn đến bế tắc và rất
có thể dẫn đến thất bại trong thực tiễn.
Để bảo vệ, xây dựng, phát
triển toàn diện con người, cần phải hướng vào các hoạt động văn hóa, khoa học,
giáo dục vào việc xây dựng thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện -
mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam”[80] và “đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục, đào tạo... Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là những nhiệm vụ quan trọng, cần có
sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.
Bảo vệ an ninh con người luôn gắn kết chặt chẽ với
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những nhân tố làm tha hóa con người.
An ninh con người là hướng vào bảo vệ những giá
trị cốt lõi, sống còn nhất của con người trước các nguy cơ, đe dọa như bạo lực,
hay suy thoái kinh tế. Thực trạng đó đã đẩy con người đến với cái thấp hèn, lạc
hậu, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; điều đó làm cho con
người bị tha hóa trên mọi phương diện của đời sống xã hội. Đây là những mối
nguy hại ảnh hưởng đến “sự tồn vong của chế độ”[81], đến sự phát triển bền vững của đất nước và trực
tiếp đe dọa an ninh con người. An ninh con người bị đe dọa tất yếu cản trở sự
phát triển toàn diện con người, cản trở sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Chính vì vậy, bảo đảm an ninh con người bên cạnh việc xây dựng và
phát triển phẩm chất, năng lực con người, khẳng định cái đúng, tôn vinh cái
đẹp, tích cực, cao thượng, cần phải luôn “đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu,
cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực...
làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo
đức xã hội, khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam”[82].
Đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc
hậu là ngăn chặn, đẩy lùi sự hủ hóa, không để cho cái xấu xâm nhập, lấn át cái
tốt, chủ nghĩa cá nhân chi phối bản thân. Chúng ta đang sống trong một thế giới
hết sức năng động, đầy những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, những xáo động,
bất trắc, khó lường ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới của đất nước, đe
dọa an ninh chính trị, an ninh xã hội, an ninh con người. Việc nhận thức đúng,
đánh giá đúng thực tiễn trong tính chỉnh thể của nó chính là vấn đề quan trọng
bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững đất nước hiện tại và cho tương lai.
Đối với lực lượng vũ trang,
việc nhận thức đúng, đủ, toàn diện vấn đề an ninh con người một mặt góp phần
quán triệt sâu sắc nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội; mặt khác, góp phần
nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị, xã hội trong
tình hình mới. Bảo vệ an ninh con người chính là bảo đảm an ninh cộng đồng, an
ninh xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước. Theo đó, chúng ta sẽ
không có phát triển nếu không có an ninh, chúng ta sẽ không có được an ninh nếu
không có sự phát triển.
Thứ
hai, công an nhân dân góp phần bảo đảm quyền con người, chống lợi dụng quyền
con người.
Một số thế lực thù địch, phản
động sử dụng chiêu bài “tự do, nhân quyền” để chống phá chế độ, gây mất trật tự
an toàn xã hội. Điều 25 Hiến pháp quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định”. Tuy vậy, chúng vẫn cắt xén, xuyên tạc
Hiến pháp, tuyên bố rằng “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Hay chúng chỉ sử dụng một
phần các điều khoản cho phù hợp lợi ích của chúng, tảng lờ những điều khoản
quan trọng, không phù hợp lợi ích của chúng. Tiêu biểu là khoản 3 Điều 18 Công
ước quy định: “Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới
hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe
công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác”, hay khoản 3
Điều 19 Công ước khẳng định: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (…) đòi
hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có
thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tôn trọng những quyền tự do và
thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức
khỏe công cộng hay đạo lý”.
Từ đó lực lượng Công an cần
tham gia phòng, chống các hoạt động lợi dụng nhân quyền trong tôn giáo, trong
dân tộc, tự do lương tâm, tự do trên mạng xã hội, tự do báo chí, lập hội, biểu
tình; đồng thời bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công
dân, quyền riêng tư, đảm bảo Luật An ninh mạng.
Thứ ba, tích cực tham gia
công tác phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Là lực lượng vũ trang nhân dân, làm nòng cốt trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu
tranh phòng, chống tội phạm, Công an nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đấu tranh phòng chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Lực lượng Công an
chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương và chỉ đạo công an các cấp
về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đồng thời, lực lượng Công an cần triển
khai đồng bộ các biện pháp, phương án, kế hoạch phòng ngừa, phát hiện và kịp
thời đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân.
Muốn vậy, ngoài những đặc
trưng của con người mới xã hội chủ nghĩa, mỗi cán bộ, chiến sĩ công an cần có
đầy đủ các phẩm chất như Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; đặc biệt là lòng
trung thành với Đảng, với chế độ. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lực lượng Công an nhân dân
cần nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây
dựng chỉnh đốn Đảng, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ nghiêm kỷ
cương, kỷ luật. Phải thực sự gần gũi với nhân dân, đoàn kết thống nhất, đề cao
tinh thần chủ động, nhạy bén, cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu làm suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Lực lượng Công an nhân dân luôn
giữ trong mình nhiệt huyết, quyết tâm “giữ mình trong sạch, vững vàng, không bị
sa ngã trước sự mua chuộc, quyến rũ của các phần tử xấu, “lợi ích nhóm”, đồng thời “không
để kẻ địch mua chuộc, lôi kéo, tấn công vào nội bộ công an” như lời của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu với toàn lực lượng Công an nhân dân. Trong sự
nghiệp đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường, phải thường xuyên rèn luyện, trau
dồi, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi
mặt. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc nhất để cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang phát huy vai trò làm nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, nền an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo
(2018), Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học (Dùng trong đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ các
ngành KHXH và NV không chuyên ngành Triết học). Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội,
2014.
3. C.Mác và Ăngghen (1995): Toàn tập, t.3, t.4, t.20 Nxb CTQG, Hà Nội.
4. Davidovich V.E., Dưới
lăng kính triết học. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam
(2016), Văn kiện Đại hội XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, H.2011,
t.5, t.8, t.11, Nxb CTQG, Hà Nội.
8. Học
viện An ninh nhân dân (2018), Hỏi - đáp về
triết học Mác - Lênin
9. Học viện An ninh nhân dân (2019), Sơ đồ hóa kiến thức cơ bản môn triết học Mác
- Lênin
10. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp lý luận chính trị - Triết
học Mác - Lênin. Nxb Lý luận Chính trị, H. 2018.
11. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
(2011), Giáo trình Triết học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
12. Hội đồng lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh
chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” về chính trị trong Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
13. Trần Văn Phòng (chủ biên), Giáo trình Triết học (dùng cho cao học không chuyên ngành triết học).
Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2015.
14. GS.TS Phùng Hữu Phú, GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Vũ Văn Hiền, PGS.TS
Nguyễn Viết Thông (2016): Một số vấn đề
lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
15. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị, Triết học Mác - Lênin- Phần I, Chủ nghĩa duy
vật biện chứng (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - bậc đại học
). Nxb. QĐND, Hà Nội, 2008.
16. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị, Triết học Mác - Lênin- Phần II, Chủ nghĩa
duy vật lịch sử (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội – bậc đại học).
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008.
17. Trần Đăng Sinh, Lê Văn
Đoán (Đồng chủ biên) (2008),
Chuyên đề triết học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
18. V.I.Lênin (2005) Toàn
tập, t.1, 18, 29, 33, Nxb CTQG, Hà Nội.
[1] См: Мировоззрение. Философский энциклопедический словарь (Thế giới quan. Từ điển bách khoa triết học) (2010).http://philosophy.niv.ru/doc/dictionary/philosophy/fc/slovar
- 204 - 2.htm#zag - 1683.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 21, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 403.
[3]
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.23, tr. 53.
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn
tập, t. 1, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr. 589.
[5] Sđd, tr.379
[6] V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 18, tr.
151.
[7] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr.751.
[8] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 67.
[9] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 645
[10] Xem: V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, t. 18, tr.
138.
[11]
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004,
tr. 38.
[12] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004,
tr. 201.
[13] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004,
tr. 455.
[14]
V.I.Lênin: Các Mác, Toàn tập, Hà Nội, 2005,
t.23, tr.53.
[15]
V.I.Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, Hà Nội, 2005, t.
29, tr. 240.
[16]
V.I.Lênin, Toàn tập, Hà Nội, 2005,
t.36. tr. 252.
[17] V.
I. Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, Hà Nội, 2005,
t. 29, tr. 381
[18] V.
I. Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, Hà Nội, 2005,
t. 29, tr. 381
[19]
Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 20, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004,
tr. 38
[20] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 431.
[21]
C.Mác: Tư bản, Tập 3: Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, Phần thứ 2, C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Hà Nội, 2004. t.
25, phần II, tr.
540.
[22]
V.I.Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, Hà Nội, 2005. t.
29, tr. 268.
[23]
V.I.Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, Hà Nội, 2005. t.
29, tr. 240.
[24]
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 20, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr. 191
[25]
V.I.Lênin: Bút ký triết học, Toàn tập, Hà Nội, 2005. t.
29, tr. 379
[26]
V.I.Lênin: Toàn tập, Hà Nội, 2005. t.
26, tr. 65
[27]V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ M. 1980,tr.167.
[28]
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ M. 1980, tr.126.
[29] V.I.Lênin, Toàn tập, t. 18, Nxb Tiến bộ, M., 1980, tr.168.
[30] V.I.Lênin, Toàn tập, t. 29, Nxb Tiến bộ, M., 1981, tr.179.
[31] V.I.Lênin, Toàn tập, t. 18, Nxb Tiến bộ, M., 1980, tr.155.
[32] V.I.Lênin, Toàn tập, t. 18, Nxb Tiến bộ, M., 1980, tr.155.
[33] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995):
Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr500
[34] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 641.
[35] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998, t. 34, tr. 241.
[36] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , 1993, tr . 552.
[37] C. Mác và
Ph. Ăngghen: Toàn tập,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, t. 3, tr. 39 - 40.
[38] C. Mác và
Ph. Ăngghen: Toàn tập,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1998, t. 19, tr. 500.
[39] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 269.
[40] C.Mác và Ph.Ăngghen (2006):Toàn tập, t. 46 -
Phần II, Nxb Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội, tr. 372.
[41] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 187.
[42] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 15.
[43] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t. 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr . 21.
[44]V.I.Lênin, Toàn tập, t. 45, Nxb Tiến bộ, M.,1974, tr. 431.
[45] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva, 1974, t. 1, tr. 198.
[46] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva, 1974, t. 1, tr. 171.
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX .Nxb Chính trị quốc gia. H. 2001, tr.
84.
[48]V.I. Lênin, Toàn tập, t. 39, Nxb Tiến bộ, M.1977, tr. 17-18.
[49] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,
1995, t. 28, tr. 662.
[50] Sđ d, t39,
tr298
[51] C.Mác và
Ph.Awngghen: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1996, t28, tr662
[52]Hồ Chí Minh, Toàn
tập, t. 9, Nxb CTQG, H,.1996, tr.314.
[53]C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 257
[54]V.
I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva, 1976,t.33,tr.11.
[55]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.171, 160.
[56] V.I.Lênin: Toàn tập, nxb.
Tiến bộ, Mátxcova, 1981, t.26, tr.66
[57] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.15.
[58] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.889.
[59] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.437.
[60] V.I.Lênin, Toàn tập, t.17. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.515-516.
[61] Hêghen. Toàn tập, t.IX. Mátxcơva, 1932, tr. 52 (Tiếng Nga).
[62] C.Mác và Ph.Ăngghen:
Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, t3, tr66
[63] V.I.Lênin, Toàn tập, t.41. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.34.
[64] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, t. 41, tr. 361.
[65] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999, t. 1,
tr. 39, 271.
[66] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.135.
[67] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.11.
[68] V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.4, tr.473.
[69]Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 13. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.
[70] Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 7. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. tr.209.
[71] Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. tr.56.
[72]
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam: Văn
kiện
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
thứ
XI, Văn
phòng
Trung ương
Đảng,
Hà
Nội
2011, tr.76.
[73]Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011,
tr.49.
[74]
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam, Văn
kiện
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
thứ
XII, Văn
phòng
Trung ương
Đảng,
Hà
Nội
2016, tr 126-127.
[75]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr78.
[76] Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 5, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 406-407
[77] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 11
[78] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 70-74
[79] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 29.
[80] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 29.
[81] Đảng Cộng sản Việt Nam (2012): Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 22
[82] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 127
0 comments:
Đăng nhận xét