Bản chất của vấn đề nâng cao năng lực hợp tác là xây dựng một nền văn hoá mở, một nền văn hoá biết cách tiếp nhận và chung sống với các nền văn hoá khác. Hợp tác, vì thế là nội dung triết học quan trọng nhất để kiến tạo hiện tại và tương lai. Nó trở thành triết lý để sống và phát triển của toàn nhân loại.
1. Những thay đổi cơ bản của đời sống kinh tế - chính trị thế giới
Sự mở rộng đầu tư nước ngoài.
Hãy thử nhìn vào chiếc TV của bạn, rất có thể đó là một chiếc Sonycủa "Nhật" hay một chiếc Daewoo"Hàn Quốc". Nhưng hãy để ý đến dòng chữ bên dưới, gần như chắc chắn là bạn sẽ lại thấy một dòng chữ khác "Made in Singapore" hoặc "Made in Vietnam". Điều này chắc chắn sẽ chẳng khiến bạn ngạc nhiên. Nhưng vậy thì đó là TV Nhật hoặc Hàn Quốc, hay TV Singapore hoặc Việt Nam? Hiện tượng này chỉ có trong thế kỷ của chúng ta, khi hàng hoá đã trở thành sản phẩm có quốc tịch không rõ ràng, và rất có thể việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng gấp đôi lại khiến cho Hàn Quốc thu lợi gấp ba.
Trên đây chỉ là một ví dụ nhỏ về sự thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào đời sống. Thật ra, còn có nhiều sự thâm nhập khác, khó nhìn thấy hơn, và dễ khiến cho chúng ta nhầm lẫn. Ngày nay, kêu gọi đầu tư nước ngoài đang là một chính sách lớn, và là mục tiêu cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới. Hàng năm, chính phủ các nước vẫn đưa ra danh sách những quốc gia đầu tư lớn nhất vào lãnh thổ mình. Trong rất nhiều trường hợp, những quốc gia đứng hàng đầu không phải là những quốc gia lớn và nhiều tiềm năng nhất. Nhưng nếu xem xét kỹ lưỡng, ta lại thấy một bức tranh hoàn toàn khác. Hầu hết các công ty của các quốc gia có vốn đầu tư lớn lại thuộc sở hữu của những công ty lớn của các nước giàu.
"Tầng lớp kỹ trị". Đó là một thuật ngữ không rõ ràng. Đôi khi, người ta dùng nó để chỉ những thế hệ hiện đại, được trang bị những kiến thức khoa học - kỹ thuật và nắm giữ vai trò lãnh đạo. Nói cách khác, người ta coi "tầng lớp kỹ trị" là hậu duệ của các tầng lớp cai trị theo lối cũ - thế hệ những nhà chính trị mới. Đôi khi, người ta gọi những nhà kỹ trị là những người nắm quyền lực lớn nhờ vào kỹ thuật. Theo quan điểm này, Bill Gate có thể được coi là một đại diện điển hình.
Vậy thực chất, những nhà khoa học hoặc kỹ nghệ có tạo nên một lực lượng, và nắm giữ một quyền lực như vậy hay không? Hiển nhiên là xã hội ngày càng được kỹ nghệ hoá cao hơn, và các nhà lãnh đạo buộc phải có những năng lực nhất định để có thể hiểu và sử dụng các kỹ nghệ. Đó là giai đoạn hiện đại của sinh hoạt chính trị toàn cầu. Trình độ kỹ thuật ở mỗi thời đại là khác nhau, do đó, nhà kỹ thuật cũng phải thay đổi cho phù hợp với những yêu cầu mới. Tóm lại, tầng lớp kỹ trị không phải là tầng lớp cai trị bằng kỹ thuật.
Những yêu cầu của trật tự thế giới mới. Trật tự thường được coi là tiến bộ, trái ngược với sự hỗn loạn, vô chính phủ. Thực ra, đó chỉ là một cách quan niệm đơn giản, là sản phẩm của những định kiến do hệ thống lưỡng phân. Nếu quan niệm như thế thì sẽ làm nghèo cuộc sống, chẳng khác gì việc phân định những sự kiện lịch sử thành tốt hoặc xấu. Tuy nhiên, khi nói về thế giới thì sự lo âu đã khiến chúng ta nghĩ rằng trật tự tốt hơn hỗn loạn, mặc dù chúng ta vẫn phải xem xét trật tự đa cực tốt hơn hay tồi hơn trật tự hai cực đã tồn tại trong thời chiến tranh lạnh.
Trên thực tế, khái niệm "trật tự thế giới" chỉ có ý nghĩa miêu tả thuần tuý. Nó chỉ ra cách thức, trình tự và quy luật sắp xếp các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Trật tự quốc tế có tính ổn định nhất định, thể hiện tương quan lực lượng cũng như đặc tính của các quan hệ quốc tế trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, với quan niệm như vậy về trật tự, chúng ta lại thấy có những vấn đề mâu thuẫn. Bởi vì, trong lịch sử, trật tự thế giới là kết quả của sự áp đặt bằng vũ lực của một hay vài quốc gia mạnh nhất. Trật tự đó, về thực chất, không phải là trật tự, vì nó chứa đựng những mầm mống nguy hiểm của sự bùng nổ. Vì vậy, trật tự thế giới mới phải là hệ thống những quan hệ được xây dựng và thoả thuận phù hợp với những đòi hỏi tự nhiên của sự phát triển.
2. Hợp tác trong thế giới mới
Hợp tác là yêu cầu tự thân của cuộc sống.
Để tồn tại và phát triển, từ bao đời nay, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, dù muốn hay không, vẫn không ngừng hợp tác để giải quyết các vấn đề xã hội. Lịch sử cho thấy, nhiều cộng đồng, mặc dù thiếu tài nguyên, vẫn phát triển rất nhanh. Ngược lại, nhiều cộng đồng sở hữu nguồn tài nguyên phong phú vẫn rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Nguyên nhân dẫn đến thành công thì nhiều, nhưng nguyên nhân dẫn đến thất bại thì chỉ có một - đó là tình trạng biệt lập với các cộng đồng khác về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá...
Thực tế cho thấy, những cộng đồng phát triển đều biết hợp tác, và thực hiện hợp tác ở mức độ rất cao với các cộng đồng khác.
Hiện nay, khi xã hội loài người đã phát triển đến trình độ cao và cùng với sự xuất hiện của xã hội tri thức, con người không thể tiếp tục hợp tác một cách rời rạc và nhiều khi do tình thế thúc ép như trước nữa. Ngày nay, hợp tác, không chỉ là nhu cầu tăng thêm sức lực hoặc trí lực để hoàn thành những mục tiêu chung, mà quan trọng hơn, trở thành nhu cầu tự thân của cuộc sống mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, do họ đang ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn bao giờ hết. Cự tuyệt hợp tác hoặc thiếu khả năng hợp tác đồng nghĩa với trì trệ và kém phát triển. Cuộc sống mới đòi hỏi phải nhận thức lại vai trò và khả năng hợp tác như là một giải pháp chủ yếu, để nhân loại chung sống và phát triển.
Hợp tác như là triết học nhân văn hiện đại. Trong lịch sử đã từng có những triết học về sự sinh tồn, chẳng hạn như các tư tưởng cực đoan của chủ nghĩa Quốc xã, với luận điểm rằng để sinh tồn một cá nhân hoặc cộng đồng này phải loại trừ cá nhân hoặc cộng đồng khác, hay thuyết Darwin xã hội, hoặc để phát triển giai cấp này phải tiêu diệt giai cấp kia.
Về thực chất, đó là triết học của Chia rẽ và Loại trừ, ủng hộ một thực thể này, chống lại một thực thể khác. Triết học này không là gì khác ngoài sự biện minh cho các cuộc chiến tranh và thực chất là thứ triết học chống lại con người. Triết học sai lầm này đã đưa nhiều cộng đồng vào ngõ cụt, và mang lại những hậu quả bi thảm trong lịch sử nhân loại. Thực tế cho thấy, mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng tồn tại và phát triển không phải bằng sự loại trừ cá nhân và cộng đồng khác (những đối thủ), mà ngược lại, bằng việc biết hợp tác hiệu quả nhất với cá nhân và cộng đồng khác (những đối tác).
Theo chúng tôi, nhân loại cần một triết học mới, triết học về Hợp tác, bởi bản chất của Tự nhiên là Hợp tác chứ không phải Chia rẽ và Loại trừ. Triết học về Hợp tác chính là triết học của Hoà bình và Phát triển.Nó giúp cho mỗi cộng đồng biết cách cùng nhau chung sống và kiến tạo tương lai, và vì vậy, có thể nói, triết học về Hợp tác chính là triết học nhân văn hiện đại.
Cái chung, tức cái Phổ biến, không phải cái Dị biệt. Một nền văn hoá mở là nền văn hoá sẵn sàng chấp nhận và tiếp thu các yếu tố văn hoá tích cực của cộng đồng khác. Ngày nay, mỗi dân tộc phải ý thức và biết cách làm cho nền văn hoá của dân tộc mình thành nền văn hoá mở. Các nhà văn hoá lớn của dân tộc như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh là những tấm gương sáng. Trong khi kiên quyết chống xâm lược, họ vẫn cổ vũ xây dựng một nền văn hoá mở, tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các cộng đồng khác.
Thực tế, các cộng đồng có nền văn hoá mở đều phát triển thuận lợi và ngược lại, những cộng đồng có nền văn hoá kém tính mở, khu trú và dị biệt đến cực đoan, đều sa lầy trong lạc hậu và kém phát triển. Lịch sử cho thấy, các chính sách "bế quan toả cảng" của các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, trong các thế kỷ trước, đã khiến những nước này phải gánh những hậu quả thảm hại.
Con người hiện đại, nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự rộng mở không gian sống, không còn đơn độc, thụ động như trong những thế kỷ trước. Năng lực hợp tác không còn được nhìn một cách thô thiển như khả năng cùng hành động giữa các cá nhân hoặc các cộng đồng, để tiến hành những công việc mà mỗi cá nhân hoặc cộng đồng đơn lẻ không thể tự hoàn thành.
Ngày nay, con người đã sáng tạo ra nhiều máy móc để vượt qua những hạn chế về cơ bắp và trí tuệ của con người riêng lẻ, nghĩa là, mỗi cá nhân và cộng đồng ngày nay đã mạnh lên gấp bội. Tuy nhiên chúng ta vẫn cần và phải hợp tác chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Năng lực hợp tác đã trở thành vẻ đẹp, thành đạo đức, lối sống của con người trong xã hội hiện đại. Khả năng hợp tác được coi như thước đo phẩm chất văn hoá cá nhân và cộng đồng, và năng lực hợp tác là cái đẹp lớn nhất của con người.
(Tạp chí Khoa học & Tổ Quốc, số 10/2003;
Báo Khoa học & Đời sống, số 20, ngày 14-20/5/2001)
0 comments:
Đăng nhận xét