ĐỀ CƯƠNG BÀI
GIẢNG
|
|
ĐỀ CƯƠNG
MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
CHƯƠNG II
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện
chứng
a) Khái niệm biện chứng,
phép biện chứng
- Phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng:
Phương pháp siêu hình (phép siêu hình) phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XV
đến thế kỷ XVIII, các ngành khoa học tự nhiên dần dần tách ra khỏi triết học và
tiến hành thực nghiệm khoa học. Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên phân tích,
phân loại và chia nhỏ giới tự nhiên, các sự vật, hiện tượng thành những bộ phận
riêng biệt, cố định, bất động để nghiên cứu. Điều này đã tạo ra thói quen xem
xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái riêng rẽ, cô lập, bất biến.
Phương pháp siêu hình bắt
nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào đó, trước hết con người cũng phải
tách đối tượng đó ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không
biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Do vậy, giá trị của phương
pháp siêu hình trong thực tế rất hạn chế. Nó chỉ có tác dụng trong một phạm vi
nhất định, bởi hiện thực không rời rạc và ngưng động như phương pháp này quan
niệm.
Đối với triết học Mác,
phương pháp siêu hình được sử dụng theo nghĩa là phương pháp nghiên cứu, xem
xét các sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng vào tư duy con người trong
trạng thái hoàn toàn riêng rẽ, cô lập, bất động ở ngoài tất cả các mối liên hệ,
sự vận động và phát triển.
+ Phương pháp biện chứng (phép biện chứng)
Phương pháp biện chứng là
phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với nhau, tác động, ảnh
hưởng qua lại ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái luôn luôn vận động, biến
đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Khi xem xét sự vật, hiện
tượng, phương pháp biện chứng thừa nhận quá trình thay đổi về chất của các sự
vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi đó là sự đấu tranh của các mặt đối
lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phương pháp biện chứng
nếu được sử dụng trong quá trình tư duy sẽ hình thành tư duy biện chứng. Tư duy
biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh hoạt, nó thừa nhận trong những trường hợp
cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là...hoặc là” còn có cả cái “vừa là...vừa là”;
thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại không phải là nó; thừa nhận cái
khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Như vậy, biện chứng dùng để chỉ những mối liên
hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật,
hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan:
Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất.
Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý
thức của con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Với nghĩa như vậy phép
biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép
siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng
thái cô lập và bất biến.
b) Các hình thức cơ bản
của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát
triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện
chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Phép biện chứng chất
phác thời cổ đại là
hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một nội
dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ
đại.
Phép biện chứng duy
tâm cổ điển Đức được
khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen. Theo Ph. Ăngghen: “Hình thức thứ hai
của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên
Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen”[1].
Tính chất duy tâm trong
phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hêghen là hạn chế cần
phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn
phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa
trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ph.Ăngghen tự nhận
xét: “Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện
chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm
duy vật về tự nhiên và về lịch sử”[2].
2. Phép biện chứng duy vật
a) Khái niệm phép biện
chứng duy vật
Phát triển sáng tạo những
“hạt nhân hợp lý” trong tư tưởng triết học nhân loại, mà trực tiếp là chủ nghĩa
duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đồng thời tổng kết
những thành tựu của khoa học hiện đại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo nên phép biện
chứng duy vật.
Định nghĩa khái quát về
phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng… là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của
xã hội loài người và của tư duy”[3].
Phép biện chứng duy vật
tác động, chi phối toàn bộ thế giới. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Biện chứng gọi là
khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ
quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt,
thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng từ mặt
đối lập này thành mặt đối lập kia, tương tự với hình thức cao hơn, đã quy định
sự sống của giới tự nhiên”.
Như vậy, phép biện chứng
duy vật là khoa học bao quát về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những
quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nói một cách tóm tắt, phép
biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển. Trong phép biện chứng duy
vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, giữa lý
luận nhận thức với logic biện chứng. Vì vậy, mỗi phạm trù, nguyên lý, quy luật
của phép biện chứng duy vật vừa thể hiện thế giới quan vừa thể hiện phương pháp
luận khoa học.
b) Những đặc trưng cơ
bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Xét từ góc độ kết cấu nội
dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có hai đặc điểm cơ bản
sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới
quan duy vật khoa học.
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác -
Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới
mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên
hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng,
khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự
quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay
giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa điện tích dương
và điện tích âm trong một nguyên tử; mối liên hệ giữa các nguyên tử, giữa các
phân tử, giữa các vật thể; mối liên hệ giữa vô cơ với hữu cơ; giữa sinh vật với
môi trường; giữa xã hội với tự nhiên; giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân
với tập thể, cộng đồng; giữa
các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ phận của đời sống xã hội; giữa tư
duy với tồn tại; giữa các hình thức, giai đoạn nhận thức; giữa các hình thái ý
thức xã hội, …
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất
là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc
đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt
đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản
chất và hiện tượng, v.v…
b) Tính chất của các
mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ
biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng
duy vật: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính
khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm
chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là
cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực
tiễn của mình.
Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng
thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt
lập với các sự vật, hiên tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất
cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những
yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn
tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ
với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của
các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ:
Các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
Cùng một mối liên hệ nhất định của sự
vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất và vai
trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trò cụ thể của
các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ vào tính chất,
đặc trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau:
Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ
bên ngoài
Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không
cơ bản
Mối liên
hệ chủ yếu và mối liên hệ không chủ yếu
Mối liên
hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp…
Quan điểm về tính phong
phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong
phú, đa dạng của các mối lên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự
vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và
thời gian cụ thể.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
Từ tính khách quan và phổ
biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần
phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống
thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như
vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận
thức và thực tiễn.
Từ tính chất đa dạng,
phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải
xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những
tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả
trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn
không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn
phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
2. Nguyên lý về sự phát triển
a) Khái niệm phát triển
Quan
điểm biện chứng cho rằng: khái
niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi
lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Nội dung khái niệm:
+ Sự phát triển khái quát xu hướng vận động đi lên của sự
vật.
+ Sự
phát triển có tính kế thừa
So sánh khái niệm “phát triển” và khái
niệm “vận động” có sự khác nhau:
Vận
động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh
hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu, còn phát triển là sự
biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.
Phát
triển là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn
khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân
tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ
trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
b) Tính chất của sự
phát triển
Các quá trình phát triển
đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển
biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt
nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong
sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Vì các sự vật, hiện tượng
luôn có mối liên hệ với nhau, tức là có sự tác động lẫn nhau; điều đó làm cho
chúng luôn vận động, biến đổi không ngừng. Sự vận động, biến đổi làm nảy sinh
mâu thuẫn trong các sự vật, hiện tượng. Quá trình giải quyết mâu thuẫn khiên sự
vật, hiện tượng phát triển.
Tóm lại, phát triển là
một quá trình tự nhiên, khách quan.
- Tính phổ biển của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát
triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi
sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng
đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng,
mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật phát triển sẽ khác
nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình sự vật còn chịu nhiều sự
tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và
điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn
tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa về mặt khác. Đó đều là những biểu
hiện của tính phong phú, đa dạng của quá trình phát triển.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
Nguyên lý về sự phát
triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển.
- Nội dung quan điểm phát
triển:
Thứ nhất, quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề
nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung
là phát triển.
Thứ hai, sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển có những biến đổi tiến
lên, đồng thời có cả những biến đổi thụt lùi.
Thứ ba, quan điểm phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải
nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho
cái mới đó phát triển thay thế cái cũ.
Thứ tư, xây dựng quan điểm phát triển cũng có nghĩa phải chống các quan điểm
siêu hình, phiến diện về sự phát triển, coi sự phát triển chỉ là sự tăng giảm
đơn thuần về lượng, phát triển có nguồn gốc bên ngoài, phát triển là sự tiến
lên theo đường thẳng…
III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ
BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Cái riêng và cái chung
a) Phạm trù cái riêng,
cái chung
Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất
định.
Trong quá trình tồn tại,
cái riêng biểu hiện tính lặp lại, tính chất này cho phép nhìn thấy những mặt,
những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều sự vật, quá trình vật chất khác nhau.
Tính chất này được diễn đạt bằng phạm trù cái chung.
Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những
quan hệ... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Trong mỗi sự vật, ngoài
cái chung còn tồn tại cái đơn nhất,
đó là những đặc tính, những tính chất,... chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện
tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Ở đây có thể hiểu cái đơn
nhất là đặc trưng của cái riêng.
Và như vậy, trong cái
riêng ngoài cái chung còn tồn tại cả cái đơn nhất.
b) Quan hệ biện chứng
giữa cái riêng và cái chung
Chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định mối quan hệ cái riêng, cái chung như sau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng.
Điều đó tức là cái chung
thực sự tồn tại, nhưng lại chỉ tồn tại trong cái riêng chứ không tồn tại biệt
lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung.
Có nghĩa là “cái riêng”
tồn tại độc lập nhưng không phải cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác.
Thứ ba, cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập
hết vào cái chung. Tức là cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ.
Cái riêng chứa đựng cả cái chung và cái đơn nhất.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng, nên muốn tìm ra cái chung (bản chất, quy luật,
chính sách, v.v..) phải thông qua việc nghiên cứu cái riêng.
- Cần nhận thức cái chung để vận dụng
vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Khi áp dụng cái chung vào cái riêng cần
phải tính đến đặc điểm và những điều kiện tồn tại cụ thể của cái riêng.
- Tạo điều kiện để cái riêng và cái đơn
nhất chuyển hóa đúng quy luật để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của mới và sự
tiêu diệt cái cũ, cái lỗi thời.
2. Nguyên nhân và kết quả
a) Phạm trù nguyên
nhân, kết quả
Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự biến
đổi nhất định.
Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các
mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
Nguyên nhân khác với
nguyên cớ và điều kiện: Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với kết
quả. Điều kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới sự hình thành kết quả.
- Một số tính chất của mối liên hệ nhân quả
Tính khách quan:
Chủ nghĩa duy tâm không
thừa nhận mối liên hệ nhân – quả tồn tại ngay trong bản thân sự vật. Chủ nghĩa
duy tâm khách quan và tôn giáo tìm nguyên nhân của mọi hiện tượng ở một thực
thể tinh thần tồn tại bên ngoài ta hoặc ở Thượng đế. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
coi khái niệm nguyên nhân và kết quả chỉ là những ký hiệu mà con người dùng để
ghi những cảm giác của mình.
Tính phổ
biến:
Tất cả mọi hiện tượng
trong tự nhiên và trong xã hội đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất
định. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân cả. Chỉ có điều nguyên nhân
ấy đã được phát hiện hay chưa phát hiện mà thôi.
Tính tất yếu:
Kết quả do nguyên nhân
gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Những điều
kiện này là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra, nhưng bản
thân chúng không gây nên biến cố ấy.
Một nguyên nhân nhất định
trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định.
b) Quan hệ biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên
nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau
nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về
thời gian (cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất
yếu sinh ra cái kia. Nhưng
mối quan hệ tất yếu là quan hệ
về mặt thời gian.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự nối tiếp nào về mặt thời
gian cũng là mối liên hệ nhân - quả.
Như vậy, khi xem xét mối liên hệ nhân -
quả mà chỉ chú ý đến tính liên tục về mặt thời gian thôi thì chưa đủ. Cái phân
biệt liên hệ nhân – quả với liên hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ:
giữa nguyên nhân và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó
nguyên nhân sinh ra kết quả.
Mối liên hệ nhân – quả trong thế giới
được thể hiện rất phong phú, nhiều vẻ. Trong đó, một nguyên nhân trong những
điều kiện nhất định, có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau. Ngược lại, một kết
quả có thể do nhiều nguyên nhân gây nên.
Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả
thế ấy; cùng
một nguyên nhân có thể sinh
ra một hoặc nhiều
kết quả và ngược lại một kết quả có
thể do một
hoặc nhiều nguyên nhân sinh ra. Do đó, mối quan hệ nhân
quả rất phức tạp, trong
trường hợp nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia
ra các loại nguyên nhân:
+ Nguyên
nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
+ Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân
không cơ bản
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân
thứ yếu
+ Nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách
quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng dẫn đến kết quả
trong thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.
- Do mối liên hệ nhân quả rất phức tạp,
đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp
giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực
tiễn.
- Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến
nhiều kết quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và
thực tiễn cần có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải
quyết và ứng dụng quan hệ nhân quả.
3. Bản chất và hiện tượng
a) Phạm trù bản chất,
hiện tượng
Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng đó.
Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
Bản chất chính là mặt bên
trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái
vẻ bề ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của hiện thực khách quan. Nó là hình
thức biểu hiện của bản chất.
Phạm trù bản chất gắn bó
hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên bản chất
của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các sự vật đó.
Phạm trù bản chất gắn
chặt với phạm trù quy luật là cùng loại, cùng trình độ. Bởi
vì, cái bản chất đồng thời là cái có tính quy luật; nói đến bản chất của sự vật
cũng là nói đến quy luật vận động và phát triển của sự vật ấy.
b) Quan hệ biện chứng
giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại
khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập trong mỗi sự vật.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất,
bản chất luôn bộc lộ ra bằng các hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng thể hiện
bản chất ở mức độ nhất định. Không có và không thể có bản chất nào tồn tại
thuần tuý ngoài hiện tượng, cũng như không có hiện tượng nào lại hoàn toàn
không thể hiện bản chất nhất định. V.I.Lênin nhấn mạnh: “…bản chất hiện ra.
Hiện tượng là có tính bản chất”[4].
Thứ hai,
bản chất luôn quy định hiện tượng, bản chất thế nào thì có hiện tượng tương ứng
với nó, khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo, khi bản chất
mất đi thì hiện tượng thể hiện nó cũng mất theo, khi có bản chất mới ra đời thì
có hiện tượng mới tương ứng.
Ví dụ:
Bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản được bộc lộ bằng nhiều
hiện tượng như: kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động, áp dụng
công nghệ hiện đại vào sản xuất, khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, nạn thất
nghiệp của công nhân, ô nhiễm môi trường…Khi chủ nghĩa tư bản không còn nữa thì
hiện tượng nói trên cũng biến mất.
Như vậy, bản chất và hiện tượng luôn gắn bó và thống nhất với nhau trong
sự vật. Nhờ vậy, con người có thể nhận thức được bản chất và quy luật phát
triển của sự vật thông qua vô vàn hiện tượng của nó.
- Tính mâu thuẫn trong sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Một là,
hiện tượng biểu hiện bản chất, nhưng không biểu hiện một cách đầy đủ hoàn toàn
bản chất; mà thường biểu hiện một khía cạnh của bản chất, thậm chí có hiện
tượng xuyên tạc bản chất.
Ví dụ:
Trong chủ nghĩa tư bản, quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân biểu hiện ra bên
ngoài là quan hệ “sòng phẳng” giữa một bên mua sức lao động và trả tiền dưới
hình thức tiền lương và một bên bán sức lao động và nhận tiền dưới hình thức
nhận lương. Song, về thực chất là nhà tư bản đã bóc lột công nhân dưới hình
thức giá trị thặng dư.
Hai là,
bản chất phản ánh cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự
vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Do đó, một bản chất thường biểu hiện
ra bên ngoài bằng vô số các hiện tượng khác nhau tuỳ thuộc vào sự biến đổi của
hoàn cảnh. Vì vậy, hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn
hiện tượng.
Ba là,
bản chất là cái tương đối ổn định, biến đổi chậm; còn hiện tượng thì thường
xuyên biến đổi một cách nhanh chóng. Sở dĩ có tình hình đó là vì nội dung của
hiện tượng được quy định không chỉ bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi môi
trường xung quanh mà trong đó sự vật tồn tại và phát triển, bởi sự tác động của
sự vật này với các sự vật khác.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
- Trong nhận thức để hiểu
đầy đủ và đúng đắn về sự vật, không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của nó. Còn trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào bản
chất không phải dựa vào hiện tượng.
- Nếu trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn cần nắm
được bản chất và dựa vào bản chất của sự vật, thì nhiệm vụ của nhận thức nói
chung, của nhận thức khoa học nói riêng là phải vạch ra được cái bản chất đó.
- Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật chứ không thể ở ngoài nó,
và khi kết luận về bản chất của sự vật cần tránh những nhận định chủ quan, tuỳ
tiện.
- Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng bộc lộ
ra ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra cái
bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
- Hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến,
nhiều khi xuyên tạc bản chất, nên trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật
phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng
trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định không bao giờ có thể xem
xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, phải xem xét
trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Quá trình đi vào
nắm bắt các cấp độ tiếp theo ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật.
Cũng vì lẽ đó, khi kết luận về bản chất của sự vật, cần hết sức thận trọng.
4. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Phạm trù
tất nhiên, ngẫu nhiên
- Phạm trù
tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của sự vật,
hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như
thế, chứ không thể khác.
- Phạm trù
ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài quyết định, cho nên, nó
có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như
thế khác.
b. Quan hệ
biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên
và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự
phát triển của sự vật và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt vừa
thống nhất, vừa đối lập, trong đó, tất nhiên đóng vai trò quyết định.
Điều đó thể
hiện ở chỗ, cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật, còn
cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho quá trình phát triển tất nhiên đó của sự vật
diễn ra nhanh hoặc chậm.
- Không có
cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy.
Tất nhiên và
ngẫu nhiên tồn tại thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất này biểu hiện:
Cái tất nhiên
cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu là hình
thức biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất nhiên. Ph. Ăngghen cho
rằng: "Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những
ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình
thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu"[5].
- Ranh giới
giữa cái tất nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đối.
+ Tính tương
đối của cái tất nhiên và ngẫu nhiên thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong mối quan
hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu nhiên, nhưng khi
xem xét trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì sự vật, hiện tượng đó
lại là cái tất yếu.
+ Tất nhiên
và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi
của sự vật và trong những điều kiện nhất định, tất nhiên có thể chuyển hóa
thành ngẫu nhiên và ngược lại.
c. Ý nghĩa
phương pháp luận
- Trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải
căn cứ vào cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên, không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không
tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái ngẫu nhiên tuy không chi
phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự
vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc.
- Vì cái tất
nhiên không tồn tại thuần túy mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Muốn nhận
thức cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích so sánh rất nhiều
cái ngẫu nhiên.
Tuy nhiên,
không phải cái chung nào cũng là tất yếu, nên khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên,
không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung mà cần phải tiến sâu hơn nữa mới tìm
ra cái chung tất yếu.
- Tất nhiên
và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cần tạo ra những điều kiện nhất định
để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.
5. Nội dung và hình thức
a. Phạm trù
nội dung, hình thức
Phạm trù nội
dung dùng đề chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật, hiện tượng;
Phạm trù hình
thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phái triển của sự vật, hiện tượng đó,
là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa cấp yếu tố của nó.
b. Quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Sự thống nhất giữa nội
dung và hình thức.
Vì nội dung
là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hình thức là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội dung.
Nội dung và
hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, không có nội
dung và hình thức thuần tuý tồn tại tách biệt nhau. Nội dung nào cũng tồn tại
trong một hình thức nhất định, ngược lại, hình thức nào cũng chứa đựng một nội
dung nhất định. Nội dung nào, có hình thức đó. Tuy nhiên không phải lúc nào nội
dung và hình thức cũng phù hợp với nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá
trình vận động và phát triển của sự vật.
- Sự tác động trở lại của
hình thức đối với nội dung
Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình thức cũng có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại nội dung.
Sự tác động của hình thức trở lại nội dung diễn ra theo hai hướng:
+ Phù hợp với
nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển
.
+ Không phù
hợp với nội dung thì sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của hình thức.
Hình thức lại là mặt tương
đối bền vững của sự vật, nên khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến
đổi, phát triển của nội dung. Còn hình thức có biến đổi nhưng chậm hơn, ít hơn
so với sự biến đổi của nội dung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nội dung và
hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt
đối hóa một trong hai mặt đó.
- Nội dung
quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải căn
cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi
nội dung của nó.
6. Khả năng và hiện thực
a. Phạm trù
khả năng, hiện thực
- Hiện thực
là phạm trù chỉ những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
- Khả năng là
phạm trù chỉ những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện
tương ứng.
b. Mối quan
hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và
hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, không tách rời, luôn luôn
chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
- Tính phức
tạp trong quan hệ giữa khả năng và hiện thực:
+ Một sự vật
không chỉ chứa đựng một khả năng mà có nhiều khả năng cùng trong những điều
kiện nhất định.
+ Trong những
điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản
thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
c) Ý nghĩa
phương pháp luận
- Trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn, cần phải dựa vào hiện thực để định ra chủ trương,
phương hướng hành động của mình, nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng sẽ dễ
rơi vào ảo tưởng.
- Tuy khả
năng là cái chưa tồn tại thực sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát
triển của sự vật trong tương lai.
- Trong nhận
thức và thực tiễn cũng cần phải nhận thức toàn diện các khả năng từ trong hiện
thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự phát triển trong
những hoàn cảnh nhất định.
- Tích cực
phát huy nhân tố chủ quan trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng
thành hiện thực theo mục đích nhất định.
- Việc chuyển
khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một cách tự động,
nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người.
IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại
a. Khái niệm chất,
lượng
- Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự
vật hiện tượng.
- Tính chất của tính
quy định về chất:
Chất có tính khách quan,
gằn liền với sự vật, không có chất thuần tuý tồn tại ngoài sự vật
Chất không đồng nhất với
thuộc tính của sự vật. Chất của sự vật là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc
tính. Sự vật, hiện tượng do nhiều thuộc tính, nhiều yếu tố tạo thành (bao gồm
thuộc tính cơ bản và không cơ bản), chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành
chất của sự vật, hiện tượng. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất thay đổi.
Ví dụ: chiếc đồng hồ có nhiều thuộc tính, như: bằng sắt, đeo tay, hình tròn…
thuộc tính cơ bản (đặc trưng) là công cụ đo thời gian.
Sự phân biệt giữa thuộc
tính cơ bản và không cơ bản, giữa chất và thuộc tính mang tính chất tương đối,
tùy theo quan hệ cụ thể.
Ví dụ: Cái bút chì dùng để viết có chất khác với cái bút chì dùng để đánh dấu
trang sách đang đọc; chất của đồng khi làm dây dẫn điện hoặc làm xoong nồi… (sự
vật có thể có nhiều chất).
Chất của sự vật, hiện
tượng còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa các yếu tố
cấu thành.
Ví dụ: Kim cương và than chì đều do cácbon cấu thành; sắp xếp đội hình thi đấu;
cách sắp xếp công việc…
Mỗi sự vật, hiện tượng
không phải chỉ có một tính quy định về chất, mà có nhiều tính quy định về chất,
tuỳ theo quan hệ cụ thể mà tính quy định về chất được bộc lộ ra (Ăngghen).
Chất có tính ổn định, nói
lên mặt đừng im tương đối của sự vật.
- Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu
thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Tính chất của tính
quy định về lượng:
Lượng là cái vốn có của
sự vật, tồn tại khách quan trong sự vật không phụ thuộc vào ý thức của con
người.
Có lượng được biểu thị
bằng con số và đại lượng chính xác, có lượng không biểu thị được bằng con số và
đại lượng. Có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật, có
lượng biểu thị yếu tố bên ngoài sự vật như kích thước dài, rộng, cao cân nặng
màu sắc v.v. của sự vật.
Lượng nói lên mặt thường
xuyên biến đổi của sự vật, không giúp phân biệt sự vật này với sự vật khác.
Sự phân biệt giữa lượng
và chất có tính chất tương đối. Trong mối quan hệ này một tính quy định là
lượng, nhưng trong mối quan hệ khác tính quy định đó lại đóng vai trò là chất.
b) Quan hệ biện chứng
giữa chất và lượng
- Những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất
Chất và lượng là hai mặt,
hai tính quy định tồn tại khách quan trong sự vật, trong đó chất có tính ổn
định hơn lượng.
Hai mặt chất và lượng
quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau làm cho lượng của sự vật
biến đổi trước theo cách thức tăng hoặc giảm.
Sự tăng hoặc giảm của
lượng không làm cho chất của sự vật biến đổi ngay, mà chỉ khi sự biến đổi của
lượng đạt đến một giới hạn nhất định mới làm cho chất của sự vật biến đổi. Giới
hạn trong đó sự biến đổi của lượng chưa làm cho chất biến đổi đó được gọi là Độ
của sự vật.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và
lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
căn bản chất của sự vật, hiện tượng.
Khi lượng tăng hoặc giảm
đạt đến giới hạn nhất định làm cho chất của sự vật biến đổi. Thời điểm tại đó
xảy ra sự biến đổi về chất gọi là điểm nút. Bản thân sự biến đổi về lượng tại
điểm nút được gọi là bước nhảy.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Sự thay đổi về chất diễn
ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính
chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và
nhỏ, bộ phận và toàn bộ, tự phát và tự giác…
Thông qua bước nhảy chất
cũ của sự vật mất đi và chất mới ra đời. Tương ứng với điều đó thì sự vật cũ
chuyển sang sự vật mới. Trong sự vật mới lại có chất mới và lượng mới.
Những
thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất tác động đến lượng
thể hiện ở chỗ: chất tạo điều kiện cho lượng biến đổi. Khi chất mới ra đời làm
cho lượng của của sự vật thay đổi với quy mô, tốc độ, nhịp điệu khác đi.
Bản chất của quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa
lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự
thay đổi của lượng mới, tạo điều kiện cho sự biến đổi lượng - chất tiếp theo...
Quá trình này diễn ra liên tục làm sự vật không ngừng biến đổi.
Phương thức của sự phát triển là tích lũy dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
- Trong nhận thức cũng
như trong hành động phải coi trọng sự thay đổi về lượng, chống tư tưởng chủ
quan nóng vội muốn thay đổi về chất khi chưa có sự thay đổi đủ độ về lượng.
- Đồng thời phải coi
trọng sự thay đổi về chất, chống tư tưởng bảo thủ trì trệ, không muốn thay đổi
về chất khi có đủ điều kiện.
- Trong hoạt động con người phải biết vận
dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy và phải biết cách tác động vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật.
- Trong thực tế con người có thể chủ động tác động vào điều kiện để sự
thay đổi về lượng nằm trong giới hạn chất định nhằm duy trì một sự vật nào đó
phục vụ mục đích của con người.
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
a) Khái niệm mâu thuẫn
và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn
Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều
kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
Ví dụ:
nước và lửa, cực âm và dương của thanh nam châm, điện tử và hạt nhân trong
nguyên tử, quá trình đồng hoá và dị hoá trong cơ thể sinh vật, cung và cầu
trong sản xuất của xã hội v.v.
Mâu thuẫn
là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ
thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Mâu thuẫn biện chứng là do các mặt đối lập liên hệ, tác
động qua lại với nhau trong một sự vật (một chỉnh thể) tạo thành. Mâu thuẫn
biện chứng tồn tại khách quan và phổ biến trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thống nhất của các mặt đối lập là sự liên
hệ ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
Đấu tranh của các mặt đối lập là khuynh
hướng tác động qua lại, bài trừ phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
Mâu
thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến, tính đa dạng, phong phú.
b) Quá trình vận động của mâu thuẫn
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong mâu
thuẫn có xu hướng giữ cho sự vật tạm thời ổn định, quy định sự đứng im tương
đối của sự vật. Đồng thời sự thống nhất bao hàm sự đấu tranh.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho hai
mặt đối lập biến đổi trong khuôn khổ của sự thống nhất, làm cho trạng thái mâu
thuẫn biến đổi.
Mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn gay gắt nhất thì các mặt đối lập
chuyển hoá lẫn nhau. Qua giai đoạn chuyển hoá mâu thuẫn được giải quyết.
Xét về một số phương diện nào đó và trong những quan hệ nhất định, giữa
hai mặt đối lập bao giờ cũng có một số yếu tố giống nhau, yếu tố đồng chất, do
vậy, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết không phải theo cách một trong hai
mặt đối lập phủ định mặt đối lập kia mà sự thống nhất giữa hai mặt đối lập cũ
bị phá vỡ, hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, tương ứng với điều đó sự vật cũ
chuyển sang sự vật mới, ở đó lại xuất hiện mâu thuẫn mới và quá trình thống
nhất, đấu tranh giữa hai mặt đối lập lại diễn ra để tiếp tục thúc đẩy sự vật
vận động phát triển.
Vậy chính sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc
của sự vận động, phát triển của sự vật
- Phân loại mâu thuẫn:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Bản chất quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những
mặt, những khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối
liên hệ của hai mặt đối lập trong cùng một sự vật tạo nên mâu thuẫn biện chứng.
Các mặt đối lập trong mâu thuẫn biện chứng vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau và chuyển hóa lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
d) Ý nghĩa phương pháp
luận
- Muốn phát hiện ra nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của
sự vật, cần phải tìm trong chính sự vật, tìm trong thể thống nhất những mặt đối
lập của chính sự vật, không được tìm nguồn gốc vận động của sự vật bên ngoài sự
vật. Do vậy Lênin nói: Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức của các
bộ phận của nó, đó là thực chất ... của phép biện chứng.
- Hiểu đúng mâu thuẫn của
sự vật mới đề ra được cách giải quyết đúng và mới thúc đẩy sự phát triển của sự
vật. Muốn vậy phải xem xét quá trình phát sinh phát triển của từng mâu thuẫn,
xem xét vị trí vai trò của các mâu thuẫn, vị trí vai trò của các mặt đối lập,
xác định điều kiện thích hợp cho việc giải quyết từng mâu thuẫn.
- Phải tìm mọi cách để
giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết
khi đủ điều kiện, do vậy phải chống thái độ chủ quan nóng vội, đồng thời phải
tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để mâu thuẫn phát triển đến độ chín
muồi mới giải quyết được mâu thuẫn.
Mỗi mâu thuẫn có cách
giải quyết (cách chuyển hóa lẫn nhau của hai mặt đối lập) khác nhau do vậy phải
linh hoạt tìm hình thức thích hợp để giải quyết mâu thuẫn vừa phù hợp với từng
mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
3. Quy luật phủ định của phủ định (tự học, tự nghiên cứu)
a) Khái niệm phủ định,
phủ định biện chứng
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động phát
triển.
Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Với
tư cách không chỉ là học thuyết về sự biến đổi nói chung mà căn bản là học
thuyết về sự phát triển, phép biện chứng duy vật chú trọng phân tích không phải
sự phủ định nói chung mà căn bản là sự phủ định biện chứng.
Phủ định
biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính
khách quan và tính kế thừa.
Bởi vậy, phủ định biện
chứng là khuynh hướng tất yếu của mỗi liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới,
là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
b) Phủ định của phủ
định
Phủ
định biện chứng mới nói lên một giai đoạn của quá trình phát triển. Với tư
cách là kết quả của phủ định lần thứ nhất, cái phủ định cũng chứa đựng trong
bản thân nó yếu tố phủ định tiếp theo. Thông qua một số lần phủ định biện chứng
như vậy làm cho sự vật mới dường như quay lại điểm xuất phát ban đầu nhưng
trên cơ sở mới cao hơn, hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phủ định biện
chứng đó được gọi là phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định là sự phủ định đã qua
một số lần phủ định biện chứng để đưa sự vật dường như quay lại điểm xuất phát
ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, hoàn thành một chu kỳ phát triển.
-
Tính chất phủ định của phủ định
Phủ
định của phủ định kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật, nhưng không chấm
dứt sự phát triển. Sự vật mới do phủ định của phủ định làm xuất hiện lại chứa
đựng yếu tố tự phủ định mình, nghĩa là lại bắt đầu một chu kỳ phát triển mới.
Sự
phát triển của sự vật thông qua sự phủ định của phủ định có tính chất chu kỳ như
vậy tạo thành một con đường xoáy ốc đi lên.
Con
đường xoáy chôn ốc của sự phát triển biểu thị tính chất biện chứng của quá
trình phát triển: đó là tính kế thừa, tính chu kỳ, tính tiến lên và tính vô
cùng tận của sự phát triển.
Quá
trình phủ định của phủ định ở mỗi sự vật lại được thực hiện dưới những hình
thức rất khác nhau. Có
sự vật chu kỳ phát triển ngắn, có sự vật chu kỳ phát triển dài; có sự vật phải
qua nhiều bước trung gian mới thực hiện được một chu kỳ phát triển có sự vật
trải qua ít bước trung gian hơn v.v.
Bản chất của quy luật: Quy luật phủ định của
phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật và sự tự phủ định của nó,
nhờ đó sự phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn một số
nội dung của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới, dẫn tới
phủ định của phủ định, làm cho sự phát triển theo khuynh hướng đường “xoáy ốc”.
c) Ý nghĩa phương pháp
luận
- Quy luật phủ định của
phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng
mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác
nhau.
- Theo quy luật phủ định của phủ định, trong
thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ
- Phải có quan điểm biện
chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi phải khắc
phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ để phát triển
cái mới.
V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY
VẬT BIỆN CHỨNG
1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận
thức
a) Thực tiễn và các
hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác với các hoạt động
khác, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những công cụ
vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những
mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người.
Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng phát triển bởi con
người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà hoạt động thực tiễn bao giờ cũng
là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử
- xã hội.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình
thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động
thực nghiệm khoa học.
Mỗi hình thức hoạt động
cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế
cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong
mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quan
trọng nhất, đóng vại trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi
vì, nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường
xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải
thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự sinh tổn và phát triển của con người.
Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn
khác. Các hình thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn
sản xuất vật chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.
Nói như vậy không có
nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là
hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược
lại, chúng có tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát
triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động thực tiễn chính trị xã hội mang tính chất tiến
bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt
động sản xuất phát triển; còn nếu ngược lại, thì nó sẽ kìm hãm sự phát triền
của hoạt động sản xuất vật chất.
Chính sự tác động qua lại
lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho hoạt động thực tiễn vận
động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận
thức.
b) Nhận thức và các
trình độ nhận thức
Quan niệm về nhận thức
xuất phát từ bốn nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của
con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; coi
nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không
thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến
biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn
diện hơn,...
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm
duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động phản ánh của con người
(với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư cách khách
thể nhận thức), được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và nhằm sáng tạo
tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu
chuẩn để xác định tính chân lý của những tri thức đó.
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức
về thế giới khách quan.
Với quan điểm duy vật
biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình, đó cũng là quá trình đi
từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ
nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học; v.v…
c) Vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
Thực tiễn là cơ sở, động
lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác
quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng
được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có
tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc nhận thức
thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục
đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt
được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa
chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C. Mác đã từng khẳng định: "Vấn
đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý"[6].
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng
vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là
nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V. I. Lênin đã cho rằng: "Quan điểm về
đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về
nhận thức"[7].
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi
hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu
cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu
lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực
dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa.
Như vậy, nguyên tắc thống
nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực
tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu
chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông, ngược lại
thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ
biến thành thực tiễn mù quáng.
2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
a) Quan điểm của Lênin
về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
Trong tác phẩm Bút ký triết học V. I. Lênin đã khái
quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan.
Theo sự khái quát này,
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức sự phản ánh đúng đắn đối với
hiện thực khách quan) là một quá trình, đó là quá trình bắt đầu từ "trực
quan sinh động" (hay nhận thức cảm tính) tiến đến "tư duy trừu tượng”
(hay nhận thức lý tính). Nhưng những sự trừu tượng đó không phải là điểm cuối
cùng của một chu kỳ nhận thức mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn
của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng chính
là quy luật chung của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.
- Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn
nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để
tiến hành phản ánh các sự vật khách quan, mang tính chất cụ thể, cảm tính với
những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con
người. Do vậy, ở giai đoạn này, con người mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng,
cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, cảm tính trong hiện thực khách quan
mà chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng
quan sát được. Do đó đây chính là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức. Trong
giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác,
tri giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản
nhất của các quá trình nhận thức nhưng nếu không có nó thì thì sẽ không thể có
bất cứ nhận thức nào về sự vật khách quan. Mỗi cảm giác của con người về sự vật
khách quan đều có một nội dung khách quan mặc dù nó thuộc về sự phản ánh chủ
quan của con người. Chính vì vậy mà có thể nói: "Cảm giác là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan". Cảm giác là cơ sở hình thành nên tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của
sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính; nó được hình thành trên cơ sở liên kết,
tổng hợp những cảm giác về sự vật đó. So với cảm giác, tri giác là hình thức
nhận thức cao hơn, đấy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật, nhưng đó vẫn chỉ là sự
phản ánh đối với những biểu hiện bề ngoài của sự vật khách quan, chưa phản ánh
được cái bản chất, quy luật khách quan.
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được
phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức
tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá
độ từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Đặc điểm của biểu
tượng là có khả năng tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu trưng về sự
vật khách quan, nó có tính chất liên tưởng về bề ngoài của sự vật, bởi thế nó
bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng hóa ỵễ sự vật, đó là tiền đề của
những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Tuy nhiên ở giai đoạn cảm
tính, nhận thức vẫn chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan mà nhờ
đó nhận thức mới có thể lý giải được đúng đắn các hiện tượng được phản ánh
trong giai đoạn nhận thức cảm tính, mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhận
thức phục vụ hoạt động thực nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế giới khách
quan.
Nhận thức lý tính là giai đoạt cao hơn của quá trình nhận thức, đó là sự phản
ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản
chất của sự vật khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan
trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật
hiện tượng. Nhận thức lý thú được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là:
khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản
chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát tổng hợp
biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Nó là cơ sở
hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy về sự vật khách
quan.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông qua
việc liên kết các khái niệm lại với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ
định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Theo trình độ phát triển
của nhận thức, phán đoán được chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất, phán đoán
đặc thù và phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể
hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhóm thức lý tính, được hình thành trên cơ sở
liên kết các phán đoán nhằm rút ra từ thức mới về sự vật. Điều kiện để bất cứ
một suy lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là
những phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc lôgic của các hình suy luận,
đó là suy luận quy nạp (đi từ những cái tiếng đến cái chung suy luận diễn dịch
(đi từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể).
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với
thực tiễn
Nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực
tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức song
chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền
với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức
lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết
được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho
nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở
nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng,
còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn
chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri
thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết
phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính
chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác,
mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại
phục vụ thực tiễn.
Như vậy có thể thấy quy
luật chung của quá trình vận động, phát triển của nhận thức chính là: từ thực
tiễn đến nhận thức - tái thực tiễn - tái nhận thức - v.v... Quá trình này không
có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri
thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của của nhận thức của con người
trong quá trình phản ánh thực tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận thức
cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của những quy luật chung trọng phép
biện chứng duy vật: quy luật phủ định của phủ định, quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự vận động của quy luật chung trong
quá trình vận động, phát triển nhận thức chính là quá trình con người, loài
người ngày càng tiến dần tới chân lý.
b) Chân lý và vai trò
của chân lý đối với thực tiễn
- Khái niệm
chân lý
Mọi quá trình
nhận thức đều sáng tạo ra những tri thức, tức những hiểu biết của con người về
thực tế khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều có nội dung phù hợp với
thực tế khách quan, bởi vì nhận thức thuộc về sự phản ánh của con người đối với
thực tế khách quan đó. Thực tế lịch sử nhận thức của toàn nhân loại cũng như
của mỗi con người đã chứng minh rằng những tri thức mà con người đã và đang đạt
được không phải bao giờ cũng phù hợp với thực tế khách quan; trái lại, có rất
nhiều trường hợp không phù hợp, thậm chí hoàn toàn đối lập với thực tế khách
quan.
Quan điểm của
triết học Mác - Lênin khẳng định: Chân lý
là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm.
- Các tính
chất của chân lý
+ Tính khách
quan
+ Tính cụ thể
+ Tính chất
tương đối và tuyệt đối.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội
dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức
phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa
là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ
quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận
thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách
quan quy định.
Chân lý không
chỉ có tính khách quan mà còn có tính
tuyệt đối và tính tương đối.
Tính tuyệt
đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh
của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến
chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật,
hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó
trong quá trình phát triển là vô hạn.
Song khả năng
đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của
từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của
đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
Tính tương
đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản
ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh.
Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ
mới đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh
nào đó trong những điều kiện nhất định.
Ngoài tính
khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ thể. Tính
cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với
một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể. Điều đó
có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể, xác
định. Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà
nó luôn luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian,
thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì
vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, tức
là có tính cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì những tri
thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần
túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân
lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này V. I. Lênin đã khẳng định: "không có chân
lý trừu tượng", "chân lý luôn luôn là cụ thể”[8].
- Vai trò của
chân lý đối với thực tiễn:
Để sinh tồn
và phát triển con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn, đó là các
hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con
người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát
triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển
hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể
thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng
đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy,
chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
|
|
0 comments:
Đăng nhận xét