GIÁO ÁN BÀI GIẢNG
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Bài: “Phép biện chứng duy vật”
GIÁO
ÁN
|
NỘI
DUNG
CẬP
NHẬT
|
CHƯƠNG II
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phép biện chứng duy vật
là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận
triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin; là “khoa học về mối liên hệ phổ biến” và
cũng là “khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”[1].
“Theo quan niệm của Mác, cũng như của Hêghen thì phép biện chứng bao gồm cái
mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức luận”[2].
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện
chứng
a) Khái niệm biện
chứng, phép biện chứng
Ngay từ rất sớm trong
triết học đã xuất hiện hai phương pháp đối lập nhau trong việc xem xét thế
giới: phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Hai phương pháp này
đối lập nhau trong việc nghiên cứu, xem xét và nhận thức thế giới. Cuộc đấu
tranh giữa hai phương pháp này trong lịch sử triết học là một trong những
động lực thúc đẩy khoa học và triết học phát triển.
Các khái niệm “siêu
hình” và “biện chứng” trong lịch sử triết học được dùng theo một số nghĩa
khác nhau. Còn trong triết học hiện đại, đặc biệt là triết học mácxít, chúng
được dùng để chỉ hai phương pháp nhận thức đối lập nhau trong lịch sử triết
học.
- Phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng:
Phương pháp siêu hình (phép siêu hình): Thuật ngữ “siêu hình” xuất phát từ
tiếng Hy Lạp “metaphisica”, có nghĩa là “những gì sau vật lý học” được
Arixtốt dùng để chỉ những hoạt động nghiên cứu khoa học sau vật lý học. Về
sau được các nhà triết học gọi là “siêu hình học”.
Phương pháp siêu hình phát
triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, các ngành khoa học tự nhiên
dần dần tách ra khỏi triết học và tiến hành thực nghiệm khoa học. Đây là thời
kỳ khoa học tự nhiên phân tích, phân loại và chia nhỏ giới tự nhiên, các sự
vật, hiện tượng thành những bộ phận riêng biệt, cố định, bất động để nghiên
cứu. Điều này đã tạo ra thói quen xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái
riêng rẽ, cô lập, bất biến.
Phương pháp siêu hình
bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào đó, trước hết con người
cũng phải tách đối tượng đó ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng
thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Do vậy, giá
trị của phương pháp siêu hình trong thực tế rất hạn chế. Nó chỉ có tác dụng
trong một phạm vi nhất định, bởi hiện thực không rời rạc và ngưng động như
phương pháp này quan niệm.
Đối với triết học Mác, phương
pháp siêu hình được sử dụng theo nghĩa là phương pháp nghiên cứu, xem xét các
sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng vào tư duy con người trong trạng thái
hoàn toàn riêng rẽ, cô lập, bất động ở ngoài tất cả các mối liên hệ, sự vận
động và phát triển. Do đó, phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự
tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật
ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không
thấy rừng"[3].
+ Phương pháp biện chứng (phép biện chứng)
Thuật ngữ “biện chứng”
bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là “dialektica”, có nghĩa là phương pháp và nghệ
thuật tranh luận, đàm thoại. Nó gắn liền với phép biện chứng duy tâm của
Xôcrát và Platôn. Trong thời kỳ cổ đại, phép biện chứng chất phác, ngây thơ,
mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng cổ đại Hy Lạp chiếm vị trí ưu trội.
Theo quan điểm này, thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận
của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn
nhau; thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không ngừng vận động và phát
triển.
Theo Ăngghen, quan niệm
biện chứng chất phác thời cổ đại đã cho chúng ta thấy một bức tranh về sự
chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua lại, sự vận
động và phát triển, nhưng chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những
quy luật nội tại của sự vận động và phát triển.
Phương pháp biện chứng
là phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với nhau, tác động,
ảnh hưởng qua lại ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái luôn luôn vận động,
biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Khi xem xét sự vật,
hiện tượng, phương pháp biện chứng thừa nhận quá trình thay đổi về chất của
các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi đó là sự đấu tranh của
các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phương pháp biện chứng
nếu được sử dụng trong quá trình tư duy sẽ hình thành tư duy biện chứng. Tư
duy biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh hoạt, nó thừa nhận trong những trường
hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là...hoặc là” còn có cả cái “vừa
là...vừa là”; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại không phải là
nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó
với nhau.
Ph.Ăngghen nêu lên
những điều căn bản của phương pháp biện chứng là “xem xét những sự vật và
những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau
của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng”[4].
Như vậy, biện chứng dùng để chỉ những mối liên
hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự
vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan:
Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất.
Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý
thức của con người.
Theo Ph. Ăngghen: “Biện
chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện
chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi
phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”[5].
Biện chứng khách quan
của bản thân đối tượng được phản ánh quy định biện chứng chủ quan. Mặt khác,
biện chứng chủ quan cũng có tính độc lập tương đối của nó so với biện chứng
khách quan. Điều đó được hiểu với nghĩa, một là, cái được phản ánh và cái phản
ánh không bao giờ trùng khít hoàn toàn; hai là, quá trình tư duy, quá trình
nhận thức còn có những quy luật vốn có của nó.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống
các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Với nghĩa như vậy phép
biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép
siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng
thái cô lập và bất biến.
b) Các hình thức cơ
bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát
triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép
biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Phép biện chứng chất
phác thời cổ đại
là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một
nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy
Lạp cổ đại.
Phật giáo (Ấn Độ cổ đại) quan niệm: vũ trụ là vô thủy vô
chung và huyền ảo, trong đó vạn vật biến hóa vô thường, vô định theo luật
nhân quả “sinh, trụ, dị diệt”. Cái nhân nhờ có duyên mà sinh ra quả, quả lại
nhờ có duyên mà hóa thành nhân...Cứ như vậy, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà
vạn vật cứ sinh sinh, hóa hóa mãi.
Những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch
luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ
trụ), “Âm - dương” và “Ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương
tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của âm dương gia.
Thuyết Âm – dương chỉ ra: nguyên lý
tối cao là nguồn gốc biến hóa của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là sự
liên hệ, tác động giữa hai thế lực “âm” và “dương” trong Thái cực... “Âm” và
“dương” được coi là hai thế lực cơ bản của vũ trụ; tiềm ẩn trong thái cực,
biểu thị và chi phối vạn vật trong thế giới, từ tự nhiên đến xã hội, từ “đạo
trời” đến “đạo người”, từ vật vô cùng lớn đến vật vô cùng nhỏ, từ cái giản
đơn đến cái phức tạp, từ cỏ cây, động vật đến con người như: Trời và đất,
sáng và tối, nóng và lạnh, hút và đẩy, cương và nhu, động và tĩnh, trong và
đục, nặng và nhẹ, đồng hóa và dị hóa, giống đực và giống cái, vua và tôi, cha
và con...Như vậy, chính sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa hai mặt “âm” và
“dương” mới tạo nên trời đất, vạn vật, con người và nhờ vào “âm” và “dương”
mà sự vật, hiện tượng vận động, biến hóa không ngừng.
Thuyết Ngũ hành chỉ ra năm yếu tố vật
chất đầu tiên “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ” tạo nên vũ trụ và tồn tại, phát
triển trong mối liên hệ tương sinh và tương khắc với nhau tạo nên sự luân
chuyển và biến đổi của vạn vật. “Ngũ hành tương sinh” là quá trình các yếu tố
tác động, chuyển hóa lẫn nhau (gỗ sinh ra lửa, lửa sinh ra đất, đất sinh ra
kim loại, kim loại sinh ra nước...). “Ngũ hành tương khắc” là quá trình các
yếu tố tác động, kiềm chế lẫn nhau (mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc
hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc). Mọi sự vật trong vũ trụ, kể cả xã hội, con
người đều biến đổi theo sự chi phối của ngũ hành.
Trong Đạo giáo, Lão Tử cho rằng “có
vật gì trong sự hỗn độn, có trước cả trời đất, vừa trống không, vừa lặng yên,
đứng một mình không đổi, lưu hành khắp chốn không mỏi, có thể là mẹ thiên hạ,
ta không biết nó tên gì, nên mới đặt tên cho nó là đạo, gượng gọi là lớn” (Đạo
đức kinh, chương 25). “Đạo” vừa là bản nguyên của vạn vật, vừa là con đường,
là quy luật sinh thành, biến hóa của vạn vật. Mọi sự vật, hiện tượng trong vũ
trụ, đều không ngừng biến hóa: có những vật tiến lên phía trước, có những vật
lùi lại, có những vật lớn lên, có những vật suy đi...Sự vận động của vạn vật
không phải là hỗn độn, mà tuân theo quy luật nhất định (Đạo đức kinh, chương
73). Đó là “Luật quân bình” và “Luật phản phục”. “Luật quân bình” luôn giữ
cho sự vận động của các sự vật được cân bằng, theo trật tự tự nhiên, không có
gì thái quá “cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái
gì cũ thì mới lại, cái gì ít sẽ được, nhiều thì mất” (Đạo đức kinh, chương
22). “Luật phản phục” điều chỉnh làm cho vạn vật vận động nối tiếp nhau theo
một vòng tuần hoàn như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thay qua đổi lại. Vì vậy,
“Họa là chỗ của phúc, phúc là chỗ náu của họa” (Đạo đức kinh, chương 58). Và
“nếu muốn cho những sự vật nào đó suy tàn thì tạm thời làm cho nó hưng thịnh
lên, để cho nó phát triển đến tột cùng, tất nhiên nó sẽ đổi sang mặt ngược
lại, muốn thu lại, hãy mở ra, muốn đoạt lấy hãy cho đi...” (Đạo đức kinh,
chương 36).
Đặc
biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã
thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ph. Ăngghen
viết: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát,
bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng
đã nghiên cứu những hình thái căn bản nhất của tư duy biện chứng…”
Theo
Hêraclít, lửa là bản nguyên của thế giới, “Tất cả đều trao đổi với lửa, và
lửa trao đổi với tất cả như vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”. Thế
giới không phải do một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào tạo ra cả, mà nó
“mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và
tàn lụi”. Tư tưởng “biện chứng bẩm sinh” của Hêraclít thể hiện tập trung ở ba
phương diện: a) Thế giới vật chất vận động vĩnh viễn; trong thế giới các sự
vật, hiện tượng luôn trong trạng thái vận động, biến đổi và chuyển hóa lẫn
nhau như: “Nước sinh ra từ cái chết của đất; không khí sinh ra từ cái chết
của nước; lửa sinh ra từ cái chết của không khí...” và ngược lại. Vì vậy,
“chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước mới không
ngừng chảy trên sông”. Hêghen nhận xét: “Khi nói rằng, mọi cái đang trôi đi,
Hêraclít coi sinh thành là phạm trù cơ bản của mọi tồn tại”. b) Nguồn gốc của
vận động, phát triển là ở mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Hêraclít đã dự
đoán các mặt đối lập tạo ra mâu thuẫn và mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động.
Ông viết: “Cùng một cái ở trong chúng ta – sống và chết, thức và ngủ, trẻ và
già. Vì rằng cái này mà biến đổi là cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến
đổi là cái này”; “cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh đi, cái ướt khô đi, cái
khô ướt lại”; “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện
cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi dễ
chịu hơn”. c) Sự vận động, phát triển của vạn vật do quy luật khách quan quy
định.
Xôcrát
là người đầu tiên dùng thuật ngữ “biện chứng” với nghĩa là phương pháp và
nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý. Tư tưởng này được phát triển hơn
trong quan niệm biện chứng của Platôn. Platôn cho rằng, biện chứng là nghệ
thuật khám phá ra các khái niệm đúng, là thao tác lôgic phân chia và gắn kết
các khái niệm bằng công cụ hỏi – đáp để xác định đúng các khái niệm đó.
Đối
với Arixtốt, trong tư tưởng của mình ông đã đưa ra nhiều nguyên nhân của tồn
tại và nhiều hình thức vận động; đồng thời, coi nhận thức là một quá trình từ
cảm tính đến lý tính.
Tuy
nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây
thơ, chất phác, tự phát và trừu tượng. Ph. Ăngghen có nhận xét rằng: “Trong
triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên,
chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu…Chính vì người Hy Lạp chưa đạt
tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm
giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy.
Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi
tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”[6]. Phép
biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới
nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, không
phải dựa trên những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Từ nửa cuối thế kỷ XV,
khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi sâu vào phân tích, nghiên cứu
từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dẫn tới sự ra đời của phương
pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp
thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa
học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu
quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ thì phương pháp
tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một hình thức tư duy
mới cao hơn là tư duy biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm
cổ điển Đức được
khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen. Theo Ph. Ăngghen: “Hình thức thứ
hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự
nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen”[7].
Theo
Cantơ, thế giới vật chất luôn vận động và biến đổi không ngừng. Nguồn gốc và
động lực của vận động, phát triển là ở sự thâm nhập và tác động lẫn nhau giữa
các mặt đối lập. Vì vậy, không thể chỉ dùng sức hút mà giải thích được nguồn
gốc của thế giới, vì chỉ có sức hút có tác dụng thì thế giới bao giờ cũng
đứng im mãi. Bên cạnh sức hút còn có sức đẩy, chính sự tương tác giữa sức hút
và sức đẩy làm cho thế giới vận động.
Theo Phíchtơ,
chính mâu thuẫn tồn tại trong tư duy, ý thức là nguồn gốc của vận động và phát
triển; rằng, mâu thuẫn và vận động, phát triển; còn trong triết học Sêlinh,
tư tưởng biện chứng thể hiện chủ yếu ở quan niệm về mối liên hệ phổ biến, về
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong giới tự nhiên.
Như vậy, các nhà triết
học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng
duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hêghen biểu
hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm
tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo
Hêghen, “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại tự “tha hóa” thành
giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. “Tinh thần,
tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao
chép của ý niệm”[8]. Các nhà
triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây dựng phép biện
chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lô gích chặt chẽ của
ý thức, tinh thần. V. I. Lênin cho rằng: “Hêghen đã đoán được một cách tài
tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng, của thế giới, của giới tự
nhiên) trong biện chứng của khái niệm”[9].
Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của C.Mác: “Tính chất thần bí mà phép biện
chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái
vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược
đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý
của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”[10].
Tính chất duy tâm trong
phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hêghen là hạn chế cần
phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên
phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện
chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê phán đối với
phép biện chứng cổ điển Đức. Ph.Ăngghen tự nhận xét: “Có thể nói rằng hầu như
chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi
triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về
lịch sử”[11].
2. Phép biện chứng duy vật
a) Khái niệm phép
biện chứng duy vật
Phát triển sáng tạo
những “hạt nhân hợp lý” trong tư tưởng triết học nhân loại, mà trực tiếp là
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đồng
thời tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
tạo nên phép biện chứng duy vật.
Định nghĩa khái quát về
phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng… là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên,
của xã hội loài người và của tư duy”[12].
Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin còn có một số định nghĩa khác về phép biện chứng duy
vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen
đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”[13]; còn
khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học
thuyết về sự phát triển của nhận thức) trong phép biện chứng mà C.Mác đã kế
thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong số những thành
quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát
triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học
thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh
vật chất luôn luôn phát triển không ngừng.[14]"
v.v...
Phép biện chứng duy vật
tác động, chi phối toàn bộ thế giới. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Biện chứng gọi là
khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là
chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong
toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là
những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa
cuối cùng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, tương tự với hình thức cao
hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
Như vậy, phép biện
chứng duy vật là khoa học bao quát về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển,
những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nói một cách tóm tắt,
phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển. Trong phép biện chứng
duy vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, giữa
lý luận nhận thức với logic biện chứng. Vì vậy, mỗi phạm trù, nguyên lý, quy
luật của phép biện chứng duy vật vừa thể hiện thế giới quan vừa thể hiện
phương pháp luận khoa học.
b) Những đặc trưng cơ
bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Xét từ góc độ kết cấu
nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có hai đặc điểm
cơ bản sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới
quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật chẳng
những có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc
biệt là với phép biện chứng của Hêghen (là phép biện chứng được xác lập trên
nền tảng thế giới quan duy tâm) mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển
so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ thời
cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây dựng trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật nhưng đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực quan, ngây
thơ và chất phác).
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác -
Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích
thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là sự giải thích
đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo
thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển,
những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận
chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ
là nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn
diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, phương pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm
tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển,...
Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để
giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ
bản đó mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan
trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động
sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
|
|
II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ
BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên
hệ, mối liên hệ phổ biến
Thế giới được tạo thành
từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng
có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập,
tách rời lẫn nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ thì nhân tố gì quy định
sự liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ
nhất:
Quan niệm siêu hình cho
rằng: Các sự vật, hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh
cái kia; giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự rang buộc lẫn nhau; có
chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Quan điểm biện chứng
cho rằng: Thế giới như là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và
các quá trình cấu thành nên thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ
qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Trả lời câu hỏi thứ
hai:
Chủ nghĩa duy tâm: Các
sự vật, hiện tượng có được sự liên hệ, tác động lẫn nhau là do các lực lượng
siêu nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Quan điểm duy vật biện
chứng: Cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là tính thống
nhất vật chất của thế giới.
Trong phép biện chứng,
khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ
sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng,
hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để
chỉ mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó
những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng,
đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v…
b) Tính chất của các
mối liên hệ
Tính khách quan, tính
phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối
liên hệ.
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện
chứng duy vật: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có
tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân
chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của
con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó
trong hoạt động thực tiễn của mình.
Tính phổ biến của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện
chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt
đối biệt lập với các sự vật, hiên tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống,
bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là
bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên
hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ:
Các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác
nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
Cùng một mối liên hệ nhất định của sự
vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất và vai
trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trò cụ thể
của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ vào tính
chất, đặc trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ
sau:
Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài:
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn
nhau giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật; nó giữ vai
trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật,
các hiện tượng khác nhau; nói chung nó không có ý nghĩa quyết định; hơn nữa
nó thường thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận
động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản:
Mối liên hệ cơ bản là phạm trù triết học chỉ sự phụ thuộc
và tương tác lẫn nhau giữa những mặt (yếu tố, thuôc tính…) cơ bản cấu tạo nên
sự vật và quyết định trực tiếp quá trình hình thành và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ không cơ bản là phạm trù triết học chỉ sự phụ
thuộc và tương tác lẫn nhau giữa những mặt (yếu tố, thuộc tính…) không cơ bản
của sự vật và có tác động ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển
của sự vật.
Bên
cạnh đó, còn một số mối liên hệ như sau:
Mối
liên hệ chủ yếu và mối liên hệ không chủ yếu
Mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp…
Quan điểm về tính phong
phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong
phú, đa dạng của các mối lên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi
sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không
gian và thời gian cụ thể.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Từ tính khách quan và
phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình
huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có
thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống
thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện,
siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I. Lênin cho rằng:
"Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt, tất cả các mối liên hệ "và quan hệ gián tiếp" của sự
vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng
cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc”[15].
Đối lập với quan điểm biện chứng toàn
diện thì quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó
không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc
xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự
nghiệp cách mạng nước
ta, “Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi nới về tư duy chính trị trong
việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự
đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập
trug trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế - xã
hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính
trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các
mặt khác của đời sống xã hội”[16]. Những thành tựu to lớn của 30 năm
đổi mới vừa qua là minh chứng hùng hồn xác nhận những quan điểm trên là khoa
học, đúng đắn. Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện yêu cầu phải sử
dụng sức mạnh tổng hợp, nguồn lực, các phương tiện và các biện pháp khác nhau
để tác động nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ
nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các
mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt vốn không có mối liên hệ với
nhau hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện cường điệu một
mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.
Từ tính chất đa dạng,
phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp
với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử
lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất
đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong
thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ
thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn
và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến
diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy
biện.
2. Nguyên lý về sự phát triển
a) Khái niệm phát
triển
Khi xem xét vấn đề phát
triển nảy sinh hai câu hỏi:
Thứ nhất, sự phát triển
là gì? Sự phát triển diễn ra như thế nào?
Thứ hai, nguồn gốc của
sự phát triển?
Với câu hỏi thứ nhất, quan điểm siêu hình cho rằng: Phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần
túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát triển
là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Như vậy, hạn chế của các
nhà siêu hình là ở chỗ:
Đồng nhất sự phát triển với sự vận động nói
chung
Quan điểm về sự phát
triển còn đơn giản
Không thấy được nguồn
gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
Với câu hỏi thứ hai,
khi đề cập đến nguồn gốc của sự phát triển, những người theo quan niệm duy
tâm, tôn giáo cho rằng nguồn gốc của sự phát triển là ở các lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức của con người.
Hạn chế trong các quan
điểm duy tâm, tôn giáo nói chung là thiếu tính khoa học, triệt để. Họ giải
thích nguồn gốc sự phát triển chủ yếu là ở trong ý thức, tư duy, các khái
niệm, còn sự phát triển của các sự vật trong hiện thực khách quan thì chưa
được phân tích chính xác bởi sự phát triển đó được phản ánh bởi thế giới ý
niệm chứ không từ mâu thuẫn thực sự của bản thân các sự vật.
Trên cơ sở khắc phục những hạn chế của các quan
điểm trên, quan điểm biện chứng cho rằng: khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình
vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Nội dung khái niệm:
+ Sự phát triển khái quát xu hướng vận động đi lên của sự
vật.
+ Sự phát
triển có tính kế thừa
So sánh khái niệm “phát triển” và
khái niệm “vận động” có sự khác nhau:
Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói
lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu, còn phát
triển là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.
Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết
mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định
những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện
tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
b) Tính chất của sự
phát triển
Các quá trình phát
triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển
biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt
nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong
sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Vì các sự vật, hiện
tượng luôn có mối liên hệ với nhau, tức là có sự tác động lẫn nhau; điều đó
làm cho chúng luôn vận động, biến đổi không ngừng. Sự vận động, biến đổi làm
nảy sinh mâu thuẫn trong các sự vật, hiện tượng. Quá trình giải quyết mâu
thuẫn khiên sự vật, hiện tượng phát triển.
Tóm lại, phát triển là
một quá trình tự nhiên, khách quan.
- Tính phổ biển của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát
triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi
sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện
tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời
của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Trong tự nhiên, sự phát triển của giới vô cơ thể hiện ở dạng biến đổi các
yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong các điều
kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng làm xuất
hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu – tiền đề của sự sống.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật
với sự biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá
trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra
chính mình với trình độ ngày càng cao hơn và từ đó làm xuất hiện ngày càng
nhiều các giống loài mới phù hợp với môi trường sống.
Thuyết tiến hoá của Đácuyn đã khẳng định nhờ quá trình chọn
lọc tư nhiên, các giống loài giữ lại những đặc tính di truyền có ích cho sự
tồn tại của mình và loại bỏ đi các đặc tính có hại, từ đó khiến cho các giống
loài ngày càng phát triển, thích nghi hơn với môi trường sống.
Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải biến
xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện
ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần, phù hợp với sự vận
động và phát triển của môi trường trong đó có con người sinh sống. C.Mác đã phân
chia lịch sử phát triển xã hội loài người là quá trình thay thế của các hình
thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao: xã hội công xã nguyên thuỷ, xã hội
chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
Đối với tư duy, sự phát triển chính là khả năng nhận thức ngày càng sâu
sắc, đầy đủ, chính xác hơn hiện thực thông qua quá trình hoàn thiện các khái
niệm, phạm trù cũng như các hình thức khác của tư duy. Nghiên cứu lịch sử tư
tưởng triết học có thể thấy trải qua các giai đoạn lịch sử, từ triết học thời
cổ đại cho đến triết học Mác – Lênin, các hệ thống triết học ngày càng được phát
triển và ngày càng cung cấp cho con người những tri thức lý luận và phương pháp
luận giúp hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn
giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình sự vật còn
chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của
nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi
tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa về mặt khác.
Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của quá trình phát
triển.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Nguyên lý về sự phát
triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải
có quan điểm phát triển.
-
Nội dung quan điểm phát triển:
Thứ nhất, quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải
quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong
khuynh hướng chung là phát triển.
Ví dụ: Trong công tác đánh giá cán bộ phải dựa trên quan điểm phát triển của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự phát triển của cán bộ luôn diễn ra hàng ngày, hàng
giờ do hoạt động rèn luyện tự thân của từng cán bộ cùng với sự tác động của
các yếu tố bên ngoài. Chính vì thế, không nên đặt người cán bộ ở trạng thái
tĩnh để đánh giá, mà đánh giá họ theo một quá trình phát triển. Nếu chỉ nhìn
cán bộ với con mắt, với thước đo anh ta là con người hôm qua, chứ không phải
là con người hôm nay thì đánh giá cán bộ sẽ không thể chính xác được.
Thứ hai, sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển có những
biến đổi tiến lên, đồng thời có cả những biến đổi thụt lùi.
Quan điểm phát triển đúng
đắn về sự vật có được khi bằng tư duy khoa học, chủ thể khái quát để làm sáng
tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau. Nên trong quá trình
ấy, anh phải dự kiến được chiều hướng phát triển trong tương lai của sự vật
mà tác động các phương tiện, lực lượng biện pháp cho phù hợp. Bên cạnh đó,
quan điểm phát triển đòi hỏi phải có dự kiến khoa học.
Thứ ba, quan điểm phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải
nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện
cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ.
Thứ tư, xây dựng quan điểm phát triển cũng có nghĩa phải chống các quan điểm
siêu hình, phiến diện về sự phát triển, coi sự phát triển chỉ là sự tăng giảm
đơn thuần về lượng, phát triển có nguồn gốc bên ngoài, phát triển là sự tiến
lên theo đường thẳng…
Như vậy, với tư cách là
khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức
và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen
viết: "… phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét
những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ quá
lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sứ
tiêu vong của chúng"[17]. V. I.
Lênin cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến
tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối
quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu
ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia"[18].
|
Ví dụ: Mối liên hệ giữa điện tích dương và
điện tích âm trong một nguyên tử; mối liên hệ giữa vô cơ với hữu cơ; giữa xã
hội với tự nhiên…
Ví dụ: Sự phát triển của một cơ thể động
vật trước hết và chủ yếu là do các quá trình đồng hoá và dị hoá trong cơ thể
đó quyết định; môi trường (thức ăn, không khí…) dù tốt mấy chăng nữa mà khả
năng hấp thụ kém, thì con vật ấy cũng không lớn nhanh được. Song cơ thể động
vật cũng không thể tồn tại được, nếu không có môi trường. Nói cách khác, mối
liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữ vai trò quyết
định.
Ví dụ: Trong chủ nghĩa tư bản, mối liên hệ giữa trình độ xã hội hoá ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất là mối liên hệ cơ bản.
Mối liên hệ không cơ
bản ở đây- đó là các mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất và lưu
thông phân phối, sản xuất và đời sống, kinh tế và chính trị…
Ví dụ: Khi đánh giá vị trí lịch sử của mô hình hợp tác hoá nông nghiệp ở
miền Bắc vào những năm 60 – 70, nếu chúng ta không đặt nó vào trong hoàn cảnh
miền Bắc phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đặc biệt từ giữa
năm 1965, khi đế quốc Mỹ đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược bằng không quân ra
miền Bắc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn bị ảnh hưởng rất lớn quan niệm về mô hình chủ
nghĩa xã hội đã được xác lập ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa đi trước thì
chúng ta; Một là, sẽ không thấy
được một số giá trị tích cực của mô hình hợp tác xã trong điều kiện lịch sử
đó; Hai là, sẽ không thấy hết những
nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn
như vậy, khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.
Ví dụ: Xem xét sự phát triển xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên CNCS.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định sự vận động, phát triển và thay thế lẫn nhau của các chế độ xã hội
là do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất quy định.
Đây là quá trình tự
nhiên, khách quan, không do lực lượng siêu nhiên hay ý muốn chủ quan của con
người quyết định.
Ví dụ: Xu hướng đi theo năm hình thái kinh tế - xã hội mà Mác nêu ra có thể
coi là xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,
tuỳ theo từng điều kiện địa lý, dân số, văn hoá…ở mỗi quốc gia lại có con
đường phát triển riêng, có thể bỏ qua một trong năm hình thái kinh tế - xã
hội mà vẫn đảm bảo phát triển theo đúng quy luật của lịch sử.
|
III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ
CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng
thuộc một lĩnh vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều
có hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Thí dụ, trong toán học có phạm trù "số", “hình”, “điểm”, “mặt
phẳng”, “hàm số", v.v… Trong vật lý học có các phạm trù "khối
lượng", “vận tốc”, “gia tốc”, “lực”, v.v... Trong kinh tế học có các
phạm trù "hàng hóa", "giá trị", "giá cả”, “tiền tệ”,
"lợi nhuận", v.v...
Các phạm trù trên đây,
chỉ phản ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện
thực thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học chuyên ngành. Khác với điều
đó, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như "vật chất",
"ý thức", "vận động", “đứng im", "mâu
thuẫn", "số lượng", "chất lượng”, “nguyên nhân",
"kết quả", v.v… là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ
của một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực, mà của toàn bộ thế giới hiện
thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng đều có
nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận động, biến đổi, đều có mâu thuẫn,
có nội dung và hình thức, v.v... Nghĩa là đều có những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm trù của phép biện chứng duy
vật. Do vậy, giữa phạm trù của các khoa học cụ thể và phạm trù của phép biện
chứng có mối' quan hệ biện chứng với nhau; đó là mối quan hệ giữa cái riêng
và cái chung.
Với tư cách là khoa học
về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng khái quát những mối
liên hệ phổ biến nhất bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy vào
các cặp phạm trù cơ bản, đó là các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu
nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
1. Cái riêng và cái chung
a) Phạm trù cái
riêng, cái chung
Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất
định.
Trong quá trình tồn
tại, cái riêng biểu hiện tính lặp lại, tính chất này cho phép nhìn thấy những
mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều sự vật, quá trình vật chất khác
nhau. Tính chất này được diễn đạt bằng phạm trù cái chung.
Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố,
những quan hệ... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Trong mỗi sự vật, ngoài
cái chung còn tồn tại cái đơn nhất,
đó là những đặc tính, những tính chất,... chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện
tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Ở đây có thể hiểu cái
đơn nhất là đặc trưng của cái riêng.
Và như vậy, trong cái
riêng ngoài cái chung còn tồn tại cả cái đơn nhất.
b) Quan hệ biện chứng
giữa cái riêng và cái chung
Các trường phái triết
học trước Mác:
- Phái duy thực:
+ Tuyên bố rằng “cái
chung” tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào “cái riêng” và đẻ ra “cái riêng”.
+ Cái riêng hoặc không
tồn tại, hoặc nếu tồn tại thì cũng do cái chung sản sinh ra và chỉ là tạm
thời.
+ Cái riêng sinh ra và
chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi. Cái chung thì tồn tại
vĩnh viễn, không phải trải qua một biến đổi nào.
Đại biểu: Platôn -
triết gia Hy Lạp cổ đại
+ Cái chung là những ý
niệm tồn tại độc lập bên cạnh những cái riêng
+ Cái riêng do cái
chung sinh ra và chỉ tồn tại nhất thời
Ông lấy ví dụ bên cạnh
những cái bàn riêng lẻ thì có những cái bàn chung, bên cạnh những con người
riêng lẻ có con người nói chung…Chính cái bàn nói chung, con người nói chung
này mới tồn tại thực sự, còn những cái bàn riêng lẻ, những con người riêng lẻ
kia chỉ là những cái bong của cái bàn nói chung, của con người nói chung mà
thôi. Những cái bóng này, tức là những sự vật riêng lẻ này chỉ được thực hiện
nhờ có sự kết hợp của ý niệm chung nào đó với vật chất không có hình dáng và
sẽ mất đi ngay tức khắc khi ý niệm vừa rời khỏi vật chất.
Với Platôn cái chung
tồn tại độc lập và vĩnh viễn, còn cái riêng do cái chung đẻ ra và chỉ tồn tại
nhất thời.
- Phái duy danh phát
triển quan điểm ngược lại:
+ Chỉ có “cái riêng”
mới tồn tại thực sự
+ Cái chung là những
tên gọi do lý trí đặt ra, chứ không phải phản ánh một cái gì có trong hiện
thực.
Đại biểu: Một số đại
biểu của phái nghữ nghĩa luận như Treiz, Cayzer…
+ Khẳng định trong hiện
thực không hề có cái chung, các khái niệm chung dường như chỉ làm con người
lầm lẫn bởi họ tưởng rằng sau các khái niệm ấy là những sự vật, hiện tượng
thực tế nào đó có ảnh hưởng đến đời sống chúng ta.
+ Đề nghị gạt bỏ những
khái niệm chung và trước hết là những khái niệm nào tựa hồ đang gây ra mối
bất hoà. Ví dụ như: khái niệm “chủ nghĩa tư bản”, “chủ nghĩa đế quốc”, “sự
bóc lột”…chỉ là những khái niệm trống rỗng do đó cuộc đấu tranh chống lại
chúng là hoàn toàn vô ích.
Trong hai quan điểm này
đâu là quan điểm đúng?
- Nếu theo quan điểm
của phái duy thực ta thấy rằng các khái niệm tồn tại trước và độc lập với cái
mà nó phản ánh. Như vậy là tuyệt đối hoá cái chung, phủ nhận cái riêng. Đây
là quan điểm duy tâm hoàn toàn.
- Còn theo quan điểm
duy danh thì phải kết luận mọi khái niệm, kể cả khái niệm vật chất cũng không
biểu thị một cái gì cả. Như vậy thì chủ nghĩa duy vật cũng là giả dối bởi
toàn bộ lý luận của nó được xây dựng trên quan điểm coi vật chất là cái tồn
tại thực sự và khách quan.
Như vậy, quan điểm của
chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh đều sai lầm, phiến diện vì đã tách
rời cái riêng ra khỏi cái chung.
- Khắc phục những hạn
chế trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định mối quan hệ cái riêng, cái
chung như sau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng.
Điều đó tức là cái
chung thực sự tồn tại, nhưng lại chỉ tồn tại trong cái riêng chứ không tồn
tại biệt lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung.
Có nghĩa là “cái riêng”
tồn tại độc lập nhưng không phải cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác.
Bất cứ cái riêng nào
bao giờ cũng tồn tại trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác
với môi trường, hoàn cảnh ấy do đó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại
hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình.
Các mối liên hệ qua lại
cứ trải rộng dần, giao thoa với các mối liên hệ khác, kết quả tạo nên một
mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc
một số cái chung nào đó.
Không chỉ thế, bất cứ
cái riêng nào cũng đều không tồn tại vĩnh viễn. Sau khi xuất hiện, mỗi cái
riêng đều tồn tại trong một thời gian nhất định rồi biến thành một cái riêng
khác, cái riêng này lại biến thành cái riêng thứ ba…cứ như vậy cho đến vô
cùng tận. Kết quả của sự biến hoá vô cùng tận này là tất cả các cái riêng đều
có liên hệ với nhau. Vì thế, V.I.Lênin nhận xét: “cái riêng không tồn tại như thế nào khác ngoài mối liên hệ dẫn tới
cái chung”, và “thông qua hàng
nghìn sự chuyển hoá, nó còn liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác”.
Thứ ba, cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập
hết vào cái chung. Tức là cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ.
Cái riêng chứa đựng cả cái chung và cái đơn nhất.
Cái
chung tồn tại trong cái riêng, chỉ là một bộ phận của cái riêng.
Cái chung sâu sắc hơn
cái riêng vì nó phản ánh mối liên hệ bên trong, quy định hướng tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Trong các sự vật, hiện tượng, quá trình thì cái
chung chiếm giữ phần bản chất, hình thành chiều sâu của sự vật. Song cái
chung lại không đầy đủ vì nó chỉ là một bộ phận, một mặt của cái riêng.
Cái
riêng là cái toàn bộ, là một thực thể hoàn chỉnh và sống động. Nó phong phú
hơn cái chung là vì: Cái riêng tồn tại trong sự va chạm với cái riêng khác,
sự va chạm này vừa làm sự vật xích lại gần nhau bới cái chung, với tư cách là
cái bộ phận tồn tại trong cái riêng, vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn
nhất không lặp lại trong các sự vật khác.
Cho nên ngoài đặc điểm
giống với nhiều cái khác, cái riêng còn có cái đơn nhất, cái đặc thù chỉ nó
mới có.
Thứ tư, trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều
kiện nhất định, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau.
Trong hiện thực, cái
mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà lúc đầu xuất hiện dưới
dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát
triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện, tiến tới hoàn toàn chiến thắng
cái cũ và trở thành cái chung. Ngược lại, cái cũ ngày càng mất dần đi và từ
chỗ là cái chung nó biến dần thành cái đơn nhất.
Mối quan hệ biện chứng
giữa cái chung và cái riêng đã được V.I.Lênin khái quát: “Như vậy các mặt đối
lập (cái riêng đối lập với cái chung) là đồng nhất. Cái riêng chỉ tồn tại
trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng,
thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung
nào cũng là một khía canh, một bộ phận của cái riêng. Bất cứ cái chung nào
cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng
nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung. Bất cứ cái riêng nào cũng thông
qua hàng nghìn sự chuyển hoá mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác
(sự vật, hiện tượng, quá trình).”
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng, nên muốn tìm ra cái chung (bản chất, quy luật,
chính sách, v.v..) phải thông qua việc nghiên cứu cái riêng.
- Cần nhận thức cái chung để vận dụng
vào cái riêng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Khi áp dụng cái chung vào cái riêng
cần phải tính đến đặc điểm và những điều kiện tồn tại cụ thể của cái
riêng.
- Tạo điều kiện để cái riêng và cái
đơn nhất chuyển hóa đúng quy luật để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của mới
và sự tiêu diệt cái cũ, cái lỗi thời.
2. Nguyên nhân và kết quả
a) Phạm trù nguyên
nhân, kết quả
Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự
biến đổi nhất định.
Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa
các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng.
Nguyên nhân khác với
nguyên cớ và điều kiện: Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với
kết quả. Điều kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới sự hình thành kết
quả.
- Một số tính chất của mối liên hệ nhân quả
Tính khách quan:
Chủ nghĩa duy tâm không
thừa nhận mối liên hệ nhân – quả tồn tại ngay trong bản thân sự vật. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan và tôn giáo tìm nguyên nhân của mọi hiện tượng ở một
thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài ta hoặc ở Thượng đế. Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan coi khái niệm nguyên nhân và kết quả chỉ là những ký hiệu mà con
người dùng để ghi những cảm giác của mình.
Ví dụ: Hium cho rằng tính nhân – quả chỉ là mối liên hệ ổn định của các tri
giác được lặp lại trong ý thức của một người hay của nhiều
người, chỉ là thói quen tâm lý chứ không có trong bản thân sự vật. Theo ông,
sở dĩ lửa làm cho ta nóng và nước làm cho ta lạnh là vì nếu có một ý kiến
khác như thế, chúng ta không thể chịu nổi.
Khắc phục quan điểm trước Mác trong việc xem xét về mối liên hệ nhân – quả,
quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách
quan của bản thân sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của con người,
không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay
không, không tuỳ thuộc vào việc ta có thể tiên đoán được về một hiện tượng
khi dựa vào một hiện tượng khác hay không. Con người chỉ có thể tìm ra mối
liên hệ nhân quả trong thế giới khách quan, chứ không phải tạo ra nó từ trong
đầu óc.
Tính phổ biến:
Tất cả mọi hiện tượng
trong tự nhiên và trong xã hội đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất
định. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân cả. Chỉ có điều nguyên
nhân ấy đã được phát hiện hay chưa phát hiện mà thôi.
Tính tất yếu:
Kết quả do nguyên nhân
gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Những
điều kiện này là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra,
nhưng bản thân chúng không gây nên biến cố ấy.
Một nguyên nhân nhất
định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định.
Ví dụ: Vật trong chân không luôn luôn rơi với gia tốc 9,8m/s2. Nước luôn
luôn sôi ở 100 độC.
Nếu các nguyên nhân và
hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên cũng
càng ít khác nhau bấy nhiêu. Từ đó, ta có thể giải thích được nhiều hiện
tượng, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý vi mô, nơi các nhà triết học và vật
lý học duy tâm hiện đang tìm mọi cách phủ định tính tất
yếu của mối liên hệ nhân – quả và cho rằng điện tử có “tự do ý chí” trong quá
trình chuyển động của mình.
b) Quan hệ biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân sinh ra kết quả nên
nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện
sau nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp
nhau về thời gian (cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái
này tất yếu sinh ra cái kia. Nhưng mối quan hệ tất yếu là quan hệ về mặt thời gian. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự nối tiếp nào về mặt thời gian cũng là mối liên hệ nhân
- quả.
Như vậy, khi xem xét mối liên hệ nhân
– quả mà chỉ chú ý đến tính liên tục về mặt thời gian thôi thì chưa đủ. Cái phân
biệt liên hệ nhân – quả với liên hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ:
giữa nguyên nhân và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó
nguyên nhân sinh ra kết quả.
Mối liên hệ nhân – quả trong thế giới
được thể hiện rất phong phú, nhiều vẻ. Trong đó, một nguyên nhân trong những
điều kiện nhất định, có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau. Ngược lại, một
kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây nên.
Những thành tựu to lớn đạt được ở
nước ta trong những năm đổi mới do nhiều nguyên nhân tạo nên. Trước hết là do
đường lối đổi mới khoa học và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tổ chức và quản
lý của nhà nước, tinh thần lao động tích cực và sáng tạo của quần chúng nhân
dân…
Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết
quả thế ấy; cùng một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và
ngược lại một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân
sinh ra. Do đó, mối quan hệ nhân quả rất phức tạp, trong trường hợp
nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia ra các
loại nguyên nhân:
- Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:
Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt (yếu tố, thuộc tính) ở bên trong sự vật.
Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn
nhau giữa sự vật này với sự vật khác.
Nguyên nhân bên trong giữ vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của kết quả; còn nguyên nhân
bên ngoài có tác động ảnh hưởng đến việc hình thành kết quả thông qua nguyên
nhân bên trong.
- Nguyên nhân cơ bản và nguyên
nhân không cơ bản:
Nguyên nhân cơ bản là sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt cơ bản của sự vật.
Nguyên nhân không cơ bản là sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt không cơ bản của sự vật.
Nguyên nhân cơ bản giữ vai trò quyết
định trực tiếp suốt quá trình hình thành và phát triển của kết quả; còn
nguyên nhân không cơ bản có tác động ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát
triển của kết quả.
Bên cạnh đó, còn một số cặp nguyên
nhân sau:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên
nhân thứ yếu;
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển
hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Nguyên nhân sinh ra kết quả,
rồi kết quả lại tác động đến sự vật, hiện tượng khác và trở thành nguyên nhân
sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân biệt nguyên nhân với kết quả chỉ có
tính chất tương đối. Chẳng hạn, sự phát triển của vật chất là nguyên nhân
sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật
chất.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Mối liên hệ nhân quả có tính khách
quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng dẫn đến kết quả
trong thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.
Do mối liên hệ nhân quả rất phức tạp,
đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp
giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và
thực tiễn.
Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến
nhiều kết quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và
thực tiễn cần có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải
quyết và ứng dụng quan hệ nhân quả.
Trong hoạt động, con người cần thường
xuyên tổng kết thực tiễn, đánh giá và tận dụng mọi sức mạnh của các kết quả
đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân sớm phát huy tác dụng nhằm
đạt được mục đích định trước. Hiện nay, chúng ta cần phải phát huy tối đa
thành tựu của hơn 25 năm đổi mới để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, hoàn thiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Đồng thời, cần chủ động hơn trong hội nhập quốc tế để xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ.
3. Bản chất và hiện tượng
a) Phạm trù bản chất,
hiện tượng
Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên
hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
Bản chất chính là mặt
bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan. Nó ẩn giấu đằng
sau cái vẻ bề ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của hiện thực khách quan. Nó
là hình thức biểu hiện của bản chất.
Phạm trù bản chất gắn
bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên
bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các sự
vật đó.
Phạm trù bản chất gắn
chặt với phạm trù quy luật là cùng loại, cùng trình độ.
Bởi vì, cái bản chất đồng thời là cái có tính quy luật; nói đến bản chất của
sự vật cũng là nói đến quy luật vận động và phát triển của sự vật ấy.
b) Quan hệ biện chứng
giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại
khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập trong mỗi sự vật.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất, bản chất luôn bộc lộ ra bằng các hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng
thể hiện bản chất ở mức độ nhất định. Không có và không thể có bản chất nào
tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng, cũng như không có hiện tượng nào lại hoàn
toàn không thể hiện bản chất nhất định. V.I.Lênin nhấn mạnh: “…bản chất hiện
ra. Hiện tượng là có tính bản chất”[19].
Thứ hai, bản chất luôn quy định hiện tượng, bản chất thế nào thì có hiện
tượng tương ứng với nó, khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi
theo, khi bản chất mất đi thì hiện tượng thể hiện nó cũng mất theo, khi có
bản chất mới ra đời thì có hiện tượng mới tương ứng.
Như vậy, bản chất và hiện tượng luôn gắn bó và thống nhất với nhau
trong sự vật. Nhờ vậy, con người có thể nhận thức được bản chất và quy luật phát
triển của sự vật thông qua vô vàn hiện tượng của nó.
- Tính mâu thuẫn trong sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Một là, hiện tượng biểu hiện bản chất, nhưng không biểu hiện một cách đầy đủ
hoàn toàn bản chất; mà thường biểu hiện một khía cạnh của bản chất, thậm chí
có hiện tượng xuyên tạc bản chất.
Hai là, bản chất phản ánh cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Do đó, một bản chất
thường biểu hiện ra bên ngoài bằng vô số các hiện tượng khác nhau tuỳ thuộc
vào sự biến đổi của hoàn cảnh. Vì vậy, hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn
bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
Ba là, bản chất là cái tương đối ổn định, biến đổi chậm; còn hiện tượng thì
thường xuyên biến đổi một cách nhanh chóng. Sở dĩ có tình hình đó là vì nội
dung của hiện tượng được quy định không chỉ bởi bản chất của sự vật, mà còn
bởi môi trường xung quanh mà trong đó sự vật tồn tại và phát triển, bởi sự
tác động của sự vật này với các sự vật khác.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Trong nhận thức để hiểu
đầy đủ và đúng đắn về sự vật, không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó. Còn trong hoạt động thực tiễn
cần dựa vào bản chất không phải dựa vào hiện tượng.
Nếu trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn cần nắm
được bản chất và dựa vào bản chất của sự vật, thì nhiệm vụ của nhận thức nói
chung, của nhận thức khoa học nói riêng là phải vạch ra được cái bản chất đó.
Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật chứ không thể ở ngoài nó,
và khi kết luận về bản chất của sự vật cần tránh những nhận định chủ quan,
tuỳ tiện.
Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng bộc lộ
ra ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể tìm ra
cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
Hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến,
nhiều khi xuyên tạc bản chất, nên trong quá trình nhận thức bản chất của sự
vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau.
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định không bao giờ có
thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, phải
xem xét trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Quá
trình đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo ngày càng sâu sắc hơn trong bản
chất của sự vật. Cũng vì lẽ đó, khi kết luận về bản chất của sự vật, cần hết
sức thận trọng.
4. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a) Phạm trù tất
nhiên, ngẫu nhiên
Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của
kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy
ra như thế, không thể khác;
Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu
hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện hoặc
không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
Như vậy, cả tất nhiên
và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản, bên trong gắn với tất
nhiên, còn nguyên nhân bên ngoài gắn với ngẫu nhiên.
b) Quan hệ biện chứng
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Quan điểm siêu hình tuyệt đối hóa cái
tất nhiên hoặc cái ngẫu nhiên, hoặc tách rời hai cái với nhau. Nếu tuyệt đối
hóa cái tất nhiên sẽ dẫn đến thuyết định mệnh. Nếu tuyệt đối hóa cái ngẫu
nhiên, sẽ dẫn đến phủ nhận quy luật khách quan, phủ nhận khoa học.
- Quan điểm duy vật biện chứng khẳng
định rằng:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại
khách quan trong hiện thực và đều có vai trò nhất định đối với sự phát triển
của sự vật và hiện tượng, trong đó tất nhiên giữ vai trò quyết định.
Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt
vừa thống nhất, vừa đối lập. Không có tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần
túy. Tất nhiên vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Ngẫu
nhiên là biểu hiện một mặt, một khía cạnh của cái tất nhiên.Trong tất nhiên
có ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên có tất nhiên.
Tất nhiên quy định ngẫu nhiên. Ngẫu
nhiên bổ sung cho tất nhiên. Tuy nhiên, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu
nhiên có tính chất tương đối. Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn
nhau trong những điều kiện nhất định.
Ph. Ăngghen cho rằng:
"Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu
nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức,
dưới đó ẩn nấp cái tất yếu"[20].
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải căn cứ
vào cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên, không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách
rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt
đến cái tất nhiên, và khi dựa vào cái tất nhiên phải chú ý đến cái ngẫu
nhiên.
Tất nhiên và ngẫu nhiên
có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện nhất định để
cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.
5. Nội dung và hình thức
a) Phạm trù nội dung,
hình thức
Phạm trù nội dung dùng đề chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố,
những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phái triển của sự vật,
hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố
của nó.
b) Quan hệ biện chứng
giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ
với nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Không có nội dung nào lại không có
một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại không chứa đựng
một nội dung nhất định.
Cùng một nội dung có thể biểu hiện
trong nhiều hình thức, cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.
Nội dung quyết định hình thức và hình
thức tác động trở lại nội dung.
Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là
khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự
vật, hiện tượng.
Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức
phải thay đổi theo cho phù hợp nhưng không phải lúc nào cũng có sự phù hợp
tuyết đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng
hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình
thức phù hợp với nội dung thì thức đẩy nội dung phát triển và ngược lại, hình
thức không phù hợp với nội dung sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Nội dung và hình thức luôn thống nhất
với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung
và hình thức hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.
Nội dung quyết định hình thức cho nên
khi xem xét sự vật, hiện tượng, trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó,
muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.
Trong hoạt động thực tiễn, cần phát
huy tính tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở tạo ra tính phù
hợp của hình thức với nội dung; mặt khác cần thay đổi những hình thức không
còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung.
6. Khả năng và hiện thực
a) Phạm trù khả năng,
hiện thực
Phạm trù khả năng dùng để chỉ cái chưa xuất hiện,
chưa tồn tại trong thực tế, nhưng sẽ xuất hiện và tồn tại thực sự khi có các
điều kiện tương ứng.
Phạm trù hiện thực dùng để chỉ những cái đang tồn
tại trong thực tế và trong tư duy.
Hiện thực có hiện thực vật chất và hiện thực tinh thần. Khả năng có
khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Khả năng còn được chia ra: khả
năng gần và khả năng xa.
b) Quan hệ biện chứng
giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực tồn tại trong
mối quan hệ thống nhất, không tách rời, luôn chuyển hóa lẫn nhau.
Khả năng trong những điều kiện nhất
định thì biến thành hiện thực.
Hiện thực mới lại mở ra khả năng mới
và trong những điều kiện nhất định lại chuyển hóa thành hiện thực.
Với cùng một điều kiện nhất định có
thể tồn tại một hoặc nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả
năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa, …
Khả năng biến thành hiện thực cần
phải có những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan là tính
tích cực xã hội của ý thức chủ thể con người để chuyển hóa khả năng thành hiện
thực. Điều kiện khách quan là sự tổng hợp các mối quan hệ về hoàn cảnh, không
gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa đó.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Khả năng và hiện thực không tách rời
nhau, nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực để
nhận thức và hành động. Cần phân biệt khả năng với cái không khả năng; khả
năng với hiện thực để tránh rơi vào ảo tưởng.
Trong đời sống xã hội, để khả năng
biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người
trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục
đích của mình.
|
Ví dụ: Mỗi con cá cụ thể mà ta bắt gặp có thể có nhiều thuộc tính cụ thể
khác nhau, nhưng dù có khác nhau đến thế nào đi nữa, bất kỳ con cá nào cũng
đều là một động vật có xương sống, thở bằng mang, ở dưới nước, bơi bằng vây.
Các thuộc tính này lặp đi lặp lại ở mọi con cá. Chúng tạo nên cái chung và
cái chung này được phản ánh trong khái niệm “cá”.
Ví dụ: sấm đến sau chớp, ngày đến sau đêm
nhưng chớp không phải là nguyên nhân của sấm, đêm không phải là nguyên nhân
của ngày.
Ví dụ: Bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư do công
nhân làm ra. Bản chất này được bộc lộ ra bên ngoài bằng các hiện tượng: tăng
cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, áp dụng các công nghệ hiện đại trong sản xuất, chăm sóc sức khoẻ công
nhân và gia đình để họ làm ra nhiều giá trị thặng dư,…Bản chất của một nguyên
tố hoá học là mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân. Mối liên kết giữa điện
tử và hạt nhân được thể hiện ra bên ngoài bằng những tính chất hoá học (hiện
tượng).
Ví dụ: Bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản được bộc lộ
bằng nhiều hiện tượng như: kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao
động, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất, khủng hoảng kinh tế theo chu
kỳ, nạn thất nghiệp của công nhân, ô nhiễm môi trường…Khi chủ nghĩa tư bản
không còn nữa thì hiện tượng nói trên cũng biến mất.
|
IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Quy luật là những mối
liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.
Trong thế giới tồn tại
nhiều loại quy luật; chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi bao quát,
về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển
của sự vật trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, việc phân loại quy
luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật vào hoạt
động thực tiễn của con người.
Nếu căn cứ vào mức độ của tính phổ biến để phân loại
thì các quy luật được chia thành: những quy luật riêng, những quy luật chung
và những quy luật phổ biến. Những quy
luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của các
sự vật, hiện tượng cùng loại. Thí dụ: Những quy luật vận động cơ giới, vận
động hóa học, vận động sinh học v.v... Những
quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật
riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy
luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng, v.v... Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả
các lĩnh vực: từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy. Phép biện chứng duy vật
nghiên cứu những quy luật đó.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động để phân loạt thì các
quy luật được chia thành ba nhóm lớn: những quy luật tự nhiên, những quy luật
xã hội và những quy luật của tư duy. Những
quy luật tư nhiên là quy luật nẩy sinh và tác động trong giới tự nhiên,
kể cả cơ thể con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con
người. Những quy luật xã hội là quy
luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội; những quy luật
đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt động có ý thức của con người
nhưng những quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan. Những quy luật của tư duy là những quy luật thuộc mối liên hệ nội
tại của những khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá trình phát
triển nhận thức lý tính ở con người.
Với tư cách là một khoa
học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật nghiên
cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người, đó là: quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại
Quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là
quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động,
phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức
chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất
của sự vật có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật và ngược
lại, những sự thay đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về
lượng của sự vật trên các phương diện khác nhau, v.v... Đó là mối liên hệ tất
yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát
triển của sự vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
a) Khái niệm chất, lượng
- Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó
với sự vật hiện tượng.
Lưu ý: chất ở đây khác với chất theo quan niệm của khoa học khác (chất “điện”,
“trường” của vật lý học) và cũng phân biệt với cách hiểu thông thường về chất
như chất liệu của đồ vật.
- Tính quy định về
chất:
Chất có tính khách
quan, gằn liền với sự vật, không có chất thuần tuý tồn tại ngoài sự vật
Chất không đồng nhất
với thuộc tính của sự vật. Chất của sự vật là sự thống nhất hữu cơ của các
thuộc tính. Sự vật, hiện tượng do nhiều thuộc tính, nhiều yếu tố tạo thành
(bao gồm thuộc tính cơ bản và không cơ bản), chỉ những thuộc tính cơ bản mới
hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì
chất thay đổi.
Sự phân biệt giữa thuộc
tính cơ bản và không cơ bản, giữa chất và thuộc tính mang tính chất tương
đối, tùy theo quan hệ cụ thể.
Ví dụ: Cái bút chì dùng để viết có chất khác với cái bút chì dùng để đánh dấu
trang sách đang đọc; chất của đồng khi làm dây dẫn điện hoặc làm xoong nồi…
(sự vật có thể có nhiều chất).
Chất của sự vật, hiện
tượng còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa các yếu tố
cấu thành.
Ví dụ: Kim cương và than chì đều do cácbon cấu thành; sắp xếp đội hình thi
đấu; cách sắp xếp công việc…
Mỗi sự vật, hiện tượng
không phải chỉ có một tính quy định về chất, mà có nhiều tính quy định về
chất, tuỳ theo quan hệ cụ thể mà tính quy định về chất được bộc lộ ra
(Ăngghen).
Chất có tính ổn định,
nói lên mặt đừng im tương đối của sự vật.
- Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố
cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Tính quy định về
lượng:
Lượng là cái vốn có của
sự vật, tồn tại khách quan trong sự vật không phụ thuộc vào ý thức của con
người.
Sự vật có nhiều tính
quy định về lượng.
Có lượng được biểu thị
bằng con số và đại lượng chính xác, có lượng không biểu thị được bằng con số
và đại lượng. Có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật,
có lượng biểu thị yếu tố bên ngoài sự vật như kích thước dài, rộng, cao cân
nặng màu sắc v.v. của sự vật.
Lượng nói lên mặt
thường xuyên biến đổi của sự vật, không giúp phân biệt sự vật này với sự vật
khác.
Sự phân biệt giữa lượng
và chất có tính chất tương đối. Trong mối quan hệ này một tính quy định là
lượng, nhưng trong mối quan hệ khác tính quy định đó lại đóng vai trò là
chất.
b) Quan hệ biện chứng
giữa chất và lượng
- Những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
sự thay đổi về chất
Chất và lượng là hai
mặt, hai tính quy định tồn tại khách quan trong sự vật, trong đó chất có tính
ổn định hơn lượng.
Hai mặt chất và lượng
quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau làm cho lượng của sự
vật biến đổi trước theo cách thức tăng hoặc giảm.
Sự tăng hoặc giảm của
lượng không làm cho chất của sự vật biến đổi ngay, mà chỉ khi sự biến đổi của
lượng đạt đến một giới hạn nhất định mới làm cho chất của sự vật biến đổi.
Giới hạn trong đó sự biến đổi của lượng chưa làm cho chất biến đổi đó được
gọi là Độ của sự vật.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và
lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
căn bản chất của sự vật, hiện tượng.
Khi lượng tăng hoặc
giảm đạt đến giới hạn nhất định làm cho chất của sự vật biến đổi. Thời điểm
tại đó xảy ra sự biến đổi về chất gọi là điểm nút. Bản thân sự biến đổi về
lượng tại điểm nút được gọi là bước nhảy.
Khái niệm điểm nút dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ
làm thay đổi về chất của sự vật.
Khái niệm bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất
của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Sự thay đổi về chất
diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu
thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và
chậm, lớn và nhỏ, bộ phận và toàn bộ, tự phát và tự giác…
Thông qua bước nhảy
chất cũ của sự vật mất đi và chất mới ra đời. Tương ứng với điều đó thì sự
vật cũ chuyển sang sự vật mới. Trong sự vật mới lại có chất mới và lượng mới.
Những thay đổi về chất dẫn
đến những thay đổi về lượng
Chất tác động đến lượng
thể hiện ở chỗ: chất tạo điều kiện cho lượng biến đổi. Khi chất mới ra đời
làm cho lượng của của sự vật thay đổi với quy mô, tốc độ, nhịp điệu khác đi.
Ví dụ: khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế quan hệ sản xuất phong
kiến thời kỳ phục hưng và cận đại, nó đã làm cho lực lượng sản xuất của xã
hội phát triển rất nhanh, với quy mô rất lớn.
Ví dụ quy luật lượng –
chất:
Nước: Tính lỏng của nước là tính quy định về chất của nước, phân biệt với
nước ở trạng thái hơi (hơi nước) và trạng thái rắn (nước đá). Nhiệt độ của
nước ở trạng thái lỏng có thể là 10C - 20 0C- 30 0C
đến dưới 100 0C… là lượng.
0 độ C đến 100 độ C = Độ tồn tại của nước ở trạng thái lỏng
00C và 1000C = Điểm
nút
Sự tạo thành bão; sự chuyển biến quan hệ sản xuất giữa chủ và thợ bạn
thành quan hệ tư bản v.v. hay như các cụ nói: một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao. Có công mài sắt có ngày nên kim.
Bản chất của quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa
lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại
sự thay đổi của lượng mới, tạo điều kiện cho sự biến đổi lượng - chất tiếp
theo... Quá trình này diễn ra liên tục làm sự vật không ngừng biến đổi.
Phương thức của sự phát triển là tích lũy dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Trong nhận thức cũng như trong
hành động phải coi trọng sự thay đổi về lượng, chống tư tưởng chủ quan nóng
vội muốn thay đổi về chất khi chưa có sự thay đổi đủ độ về lượng.
Đồng thời phải coi
trọng sự thay đổi về chất, chống tư tưởng bảo thủ trì trệ, không muốn thay
đổi về chất khi có đủ điều kiện.
Trong hoạt động con người phải biết vận
dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy và phải biết cách tác động vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật.
Trong thực tế con người có thể chủ động tác động vào điều kiện để sự
thay đổi về lượng nằm trong giới hạn chất định nhằm duy trì một sự vật nào đó
phục vụ mục đích của con người.
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật ở vị trí “hạt nhân” của phép biện
chứng duy vật. Theo V. I. Lênin, "có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được
hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải
thích và một sự phát triển thêm"[21].
Quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ
biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc
và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển của sự
vật chính là xuất phát từ các mâu thuẫn khách quan vốn có của nó.
a) Khái niệm mâu
thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn
Khái niệm mặt đối lập dùng để
chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau
nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
Ví dụ:
nước và lửa, cực âm và dương của thanh nam châm, điện tử và hạt nhân trong
nguyên tử, quá trình đồng hoá và dị hoá trong cơ thể sinh vật, cung và cầu
trong sản xuất của xã hội v.v.
Mâu thuẫn
là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ
thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Mâu thuẫn biện chứng là do các
mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại với nhau trong một sự vật (một chỉnh
thể) tạo thành. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan và phổ biến trong cả
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thống nhất của các mặt đối lập
là sự liên hệ ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt
đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
Đấu tranh của các mặt đối lập
là khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ phủ định nhau của các mặt đối lập.
Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến: Theo Ph. Ăngghen: "Nếu
bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất
nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống
hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu
thuẫn…Sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó
nhưng vừa là một cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại
trong bản thân các sự vật và các quá trình; một mâu thuẫn thường xuyên nảy
sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn
nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư
duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa
năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế
của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và
bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết
trong sự tiếp nối của các thế hệ, sự tiếp nối đó ít ra đối với chúng ta trên
thực tiễn, cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô
tận"[22].
Mâu thuẫn không những
có tính khách quan, tính phổ biến mà còn có tính đa dạng, phong phú. Tính đa dạng mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ:
mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn
khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác
nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và
phát triển của sự vật. Đó là: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và
không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu,... Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn
tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú
trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
b) Quá trình vận động
của mâu thuẫn
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong mâu
thuẫn có xu hướng giữ cho sự vật tạm thời ổn định, quy định sự đứng im tương
đối của sự vật. Đồng thời sự thống nhất bao hàm sự đấu tranh.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho
hai mặt đối lập biến đổi trong khuôn khổ của sự thống nhất, làm cho trạng
thái mâu thuẫn biến đổi.
Mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn gay gắt nhất thì các mặt đối lập
chuyển hoá lẫn nhau. Qua giai đoạn chuyển hoá mâu thuẫn được giải quyết.
Xét về một số phương diện nào đó và trong những quan hệ nhất định,
giữa hai mặt đối lập bao giờ cũng có một số yếu tố giống nhau, yếu tố đồng
chất, do vậy, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết không phải theo cách một trong
hai mặt đối lập phủ định mặt đối lập kia mà sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập cũ bị phá vỡ, hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, tương ứng với điều đó
sự vật cũ chuyển sang sự vật mới, ở đó lại xuất hiện mâu thuẫn mới và quá
trình thống nhất, đấu tranh giữa hai mặt đối lập lại diễn ra để tiếp tục thúc
đẩy sự vật vận động phát triển.
Vậy
chính sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận
động, phát triển của sự vật
-
Phân loại mâu thuẫn:
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét: Mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài.
Căn cứ vào ý nghĩa với sự tồn tại và phát triển của sự vật: Mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào vai trò đối với sự tồn tại và phát triển trong giai đoạn
nhất định: Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích trong xã hội: Mâu thuẫn
đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Bản chất
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Mọi sự vật, hiện tượng
đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là
những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập trong cùng một sự vật tạo
nên mâu thuẫn biện chứng. Các mặt đối lập trong mâu thuẫn biện chứng vừa
thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau và chuyển hóa lẫn nhau làm mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế
cái cũ.
d) Ý nghĩa phương
pháp luận
Muốn phát hiện ra nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của
sự vật, cần phải tìm trong chính sự vật, tìm trong thể thống nhất những mặt
đối lập của chính sự vật, không được tìm nguồn gốc vận động của sự vật bên
ngoài sự vật. Do vậy Lênin nói: Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận
thức của các bộ phận của nó, đó là thực chất ... của phép biện chứng.
Hiểu đúng mâu thuẫn của
sự vật mới đề ra được cách giải quyết đúng và mới thúc đẩy sự phát triển của
sự vật. Muốn vậy phải xem xét quá trình phát sinh phát triển của từng mâu
thuẫn, xem xét vị trí vai trò của các mâu thuẫn, vị trí vai trò của các mặt
đối lập, xác định điều kiện thích hợp cho việc giải quyết từng mâu thuẫn.
Phải tìm mọi cách để
giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải
quyết khi đủ điều kiện, do vậy phải chống thái độ chủ quan nóng vội, đồng
thời phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để mâu thuẫn phát triển
đến độ chín muồi mới giải quyết được mâu thuẫn.
Mỗi mâu thuẫn có cách
giải quyết (cách chuyển hóa lẫn nhau của hai mặt đối lập) khác nhau do vậy
phải linh hoạt tìm hình thức thích hợp để giải quyết mâu thuẫn vừa phù hợp
với từng mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
3. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của
phủ định là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát
triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là khuynh
hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định biện
chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ "phủ định của phủ
định".
a) Khái niệm phủ
định, phủ định biện chứng
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình
vận động phát triển.
Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: chiếc nụ tự phủ định để trở
thành bông hoa. Bông hoa lại tự phủ định để tạo quả. Quả rụng xuống đất tự
phủ định để tạo thành cây v.v. đó là những sự phủ định biện chứng.
Với tư cách không chỉ
là học thuyết về sự biến đổi nói chung mà căn bản là học thuyết về sự phát
triển, phép biện chứng duy vật chú trọng phân tích không phải sự phủ định nói
chung mà căn bản là sự phủ định biện chứng.
Phủ
định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự
phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật; tạo
khả năng ra đời của cái mới, thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển
của chính bản thân sự vật. Vì thế, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự
thân phủ định.
Phủ định biện chứng
mang tính kế thừa: kế thừa những
nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố phản quy luật. Phủ định biện chứng
không phải là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà trái lại cái mới ra đời trên
cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên
tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà trong đó cái mới hình
thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ những mặt tiêu cực,
lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. V. I. Lênin cho rằng: “Không phải
là sự phủ định sạch trơn, không phải là sự phủ định không suy nghĩ, không
phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ
là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng… mà là sự phủ định coi
như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái
khẳng định, tức là không có một sự do dự nào, không có một sự chiết trung
nào”[23].
Bởi vậy, phủ định biện
chứng là khuynh hướng tất yếu của mỗi liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái
mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
b) Phủ định của phủ
định
Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn của quá trình phát triển.
Với tư cách là kết quả của phủ định lần thứ nhất, cái phủ định cũng chứa
đựng trong bản thân nó yếu tố phủ định tiếp theo. Thông qua một số lần phủ
định biện chứng như vậy làm cho sự vật mới dường như quay lại điểm xuất
phát ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Sự phủ định biện chứng đó được gọi là phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định là sự phủ định đã
qua một số lần phủ định biện chứng để đưa sự vật dường như quay lại điểm xuất
phát ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Ví dụ: Nền sản xuất phụ thuộc vào tự
nhiên à Nền sản xuất bóc lột tự nhiên à Nền sản xuất thân thiện với tự nhiên.
-
Tính chất phủ định của phủ định
Phủ định của phủ định kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật, nhưng
không chấm dứt sự phát triển. Sự vật mới do phủ định của phủ định làm xuất
hiện lại chứa đựng yếu tố tự phủ định mình, nghĩa là lại bắt đầu một chu kỳ
phát triển mới.
Sự phát triển của sự vật thông qua sự phủ định của phủ định có tính
chất chu kỳ như vậy tạo thành một con đường xoáy ốc đi lên.
Con đường xoáy chôn ốc của sự phát triển biểu thị tính chất biện chứng
của quá trình phát triển: đó là tính kế thừa, tính chu kỳ, tính tiến lên và
tính vô cùng tận của sự phát triển.
Quá trình phủ định của phủ định ở mỗi sự vật lại được thực hiện dưới
những hình thức rất khác nhau. Có sự vật chu kỳ phát triển ngắn, có sự vật chu kỳ phát
triển dài; có sự vật phải qua nhiều bước trung gian mới thực hiện được một
chu kỳ phát triển có sự vật trải qua ít bước trung gian hơn v.v.
Bản chất của quy luật: Quy luật phủ định
của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật và sự tự phủ định
của nó, nhờ đó sự phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo
tồn một số nội dung của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính
mới, dẫn tới phủ định của phủ định, làm cho sự phát triển theo khuynh hướng
đường “xoáy ốc”.
c) Ý nghĩa phương
pháp luận
Quy luật phủ định của
phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo
đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều
quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát
triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo
quy luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động nhận
thức biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong
mọi hoạt động của chúng ta và thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất
yếu là phát triển tiến lên, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và
nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta.
Theo quy luật phủ định của phủ định,
trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ.
Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo quy luật khách quan. Trong
đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức
tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, chúng ta cần phải nâng cao tính
tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất
thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó,
cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của
cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.
Phải có quan điểm biện
chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi phải khắc
phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh trong khi kế thừa cái cũ để phát triển
cái mới. Do đó, không được phủ định hoàn toàn cái cũ, cũng như không được kế
thừa toàn bộ cái cũ, mà phải kế thừa những yếu tố hợp lý, hạt nhân hợp lý của
cái cũ cho sự phát triển của cái mới. Đó là quan điểm kế thừa biện chứng,
trên tinh thần khoa học, cho mọi quá trình phát triển, nhất là trong thời đại
hội nhập của dân tộc với nhân loại ngày nay.
|
Ví dụ: chiếc
đồng hồ có nhiều thuộc tính, như: bằng sắt, đeo tay, hình tròn… thuộc tính cơ
bản (đặc trưng) là công cụ đo thời gian.
Ví dụ: chiếc đồng hồ có nhiều thuộc tính, như: bằng sắt, đeo tay, hình tròn…
thuộc tính cơ bản (đặc trưng) là công cụ đo thời gian.
|
V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC
DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Trong chủ nghĩa Mác -
Lênin, lý luận nhận thức (hay nhận thức luận) là một nội dung cơ bản của phép
biện chứng; đó là lý luận nhận thức duy vật biện chứng, tức học thuyết về khả
năng nhận thức của con người đối với thế giới khách quan thông qua hoạt động
thực tiễn; lý giải bản chất, con đường và quy luật chung của quá trình con
người nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan nhằm phục vụ hoạt
động thực tiễn của con người.
1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận
thức
a) Thực tiễn và các
hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác với các hoạt động
khác, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những công
cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo
những mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con
người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng phát
triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà hoạt động thực
tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và có tính
mục đích, tính lịch sử - xã hội.
Thực
tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có
ba hình thức cơ bản là hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu
tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động trong đó con người sử dụng những công cụ
lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện
cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
Hoạt động chính trị - xã hội là là hoạt động của các cộng đồng
người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính
trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là
hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác
định những những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Dạng hoạt động này có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Mỗi hình thức hoạt động
cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay
thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai
trò quan trọng nhất, đóng vại trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn
khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách
quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều
kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự sinh tổn và phát
triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có
các hình thức thực tiễn khác. Các hình thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng
xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất
vật chất.
Nói như vậy không có
nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là
hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược
lại, chúng có tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát
triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động thực tiễn chính trị xã hội mang tính chất
tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học đúng đắn sẽ tạo đà
cho hoạt động sản xuất phát triển; còn nếu ngược lại, thì nó sẽ kìm hãm sự
phát triền của hoạt động sản xuất vật chất.
Chính sự tác động qua
lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho hoạt động thực
tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt
động nhận thức.
b) Nhận thức và các
trình độ nhận thức
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo
thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo
ra những tri thức về thế giới khách quan.
Quan niệm trên đây về
nhận thức cũng chính là quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của nhận
thức. Quan niệm này xuất phát từ bốn nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của
con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan;
coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con
người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì
là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức
được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết
đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc
và toàn diện hơn,...
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm
duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động phản ánh của con
người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư
cách khách thể nhận thức), được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và
nhằm sáng tạo tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực
tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của những tri thức đó.
Với quan điểm duy vật
biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình, đó cũng là quá trình
đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình
độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học; v.v…
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí
nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh
nghiệm. Tri thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và
những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có thể bổ sung cho
nhau, làm phong phú lẫn nhau.
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái quát bản chất; quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm
và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan
hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở
của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong
phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn tạo thành cơ sở
hiện thực để kiểm tra sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái
quát thành lý luận mới. Tuy nhiên nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ nó
chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự
quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại những hiểu biết về các
mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối
liên hệ mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Do đó, nhận thức kinh
nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược
lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức
lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính
độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm,
hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những
kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi
đời sống của con người. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ
chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có tính phổ biến.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật,
hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc
thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong
phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế,
nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong
xã hội.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgic. Đó là các
khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính
khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có
tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử
dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản
chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học
có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời
đại khoa học và công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường
và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận
thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức
khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù
đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông
thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không
bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học.
Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng
kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt
tới trình độ nhận thức khoa học nó lại có tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức
thế giới.
c) Vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
Sở dĩ như vậy vì thực
tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con
người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo
thế giới nên con người tất yếu phải tác động vào các sự vật, hiện tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng
bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng,
đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản
chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình
thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
của con người cần phải đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái
bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và
phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít vào những năm 40 của thế kỷ
XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ. Ngay cả những thành
tựu khoa học mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời
từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh
nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người.
Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất
phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó,
nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở
hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì
thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc
về thế giới nếu nó xa rời thực tiễn.
Thực
tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động
thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực
tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận
thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của
con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực
tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng
vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm
tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa là thực tiễn
là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời
thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện
nhận thức. C. Mác đã từng khẳng định: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách
quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý"[24].
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng
vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn
là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của
mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V. I. Lênin đã cho rằng: "Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức"[25].
Vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất
phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của
bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt
đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm
chủ nghĩa.
Như vậy, nguyên tắc
thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở
và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất
định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
a) Quan điểm của
Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
Trong tác phẩm Bút ký triết học V. I. Lênin đã khái
quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan.
Theo sự khái quát này,
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức sự phản ánh đúng đắn đối
với hiện thực khách quan) là một quá trình, đó là quá trình bắt đầu từ
"trực quan sinh động" (hay nhận thức cảm tính) tiến đến "tư
duy trừu tượng” (hay nhận thức lý tính). Nhưng những sự trừu tượng đó không
phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức mà nhận thức phải tiếp tục
tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và
chứng minh tính đúng đắn của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình
nhận thức. Đây cũng chính là quy luật chung của quá trình con người nhận thức
về hiện thực khách quan.
- Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai
đoạn nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan
để tiến hành phản ánh các sự vật khách quan, mang tính chất cụ thể, cảm tính
với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của
con người. Do vậy, ở giai đoạn này, con người mới chỉ phản ánh được cái hiện
tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, cảm tính trong hiện thực
khách quan mà chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của
những hiện tượng quan sát được. Do đó đây chính là giai đoạn thấp của quá
trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình
thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ khai
nhất, đơn giản nhất của các quá trình nhận thức nhưng nếu không có nó thì thì
sẽ không thể có bất cứ nhận thức nào về sự vật khách quan. Mỗi cảm giác của
con người về sự vật khách quan đều có một nội dung khách quan mặc dù nó thuộc
về sự phản ánh chủ quan của con người. Chính vì vậy mà có thể nói: "Cảm
giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan". Cảm giác là cơ sở
hình thành nên tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những
biểu hiện của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính; nó được hình thành trên cơ
sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật đó. So với cảm giác, tri giác
là hình thức nhận thức cao hơn, đấy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật, nhưng đó
vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện bề ngoài của sự vật khách
quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được
phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức
tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước
quá độ từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Đặc điểm của
biểu tượng là có khả năng tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu trưng
về sự vật khách quan, nó có tính chất liên tưởng về bề ngoài của sự vật, bởi
thế nó bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng hóa ỵễ sự vật, đó là tiền
đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Tuy nhiên ở giai đoạn
cảm tính, nhận thức vẫn chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan
mà nhờ đó nhận thức mới có thể lý giải được đúng đắn các hiện tượng được phản
ánh trong giai đoạn nhận thức cảm tính, mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu
nhận thức phục vụ hoạt động thực nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế giới
khách quan.
Nhận thức lý tính là giai đoạt cao hơn của quá trình nhận thức, đó là sự
phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm
bản chất của sự vật khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức
năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của
các sự vật hiện tượng. Nhận thức lý thú được thực hiện thông qua ba hình thức
cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự
vật. Nó là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư
duy về sự vật khách quan.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành
thông qua việc liên kết các khái niệm lại với nhau theo phương thức khẳng
định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận
thức.
Theo trình độ phát
triển của nhận thức, phán đoán được chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất,
phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là hình thức phản
ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhóm thức lý tính, được hình thành trên cơ sở
liên kết các phán đoán nhằm rút ra từ thức mới về sự vật. Điều kiện để bất cứ
một suy lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là
những phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc lôgic của các hình suy
luận, đó là suy luận quy nạp (đi từ những cái tiếng đến cái chung suy luận
diễn dịch (đi từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể).
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính
với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực
tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức song
chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn
liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận
thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể
hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự
vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu
sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại
ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối
tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con
người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định
xem những tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận
thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm
thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận
thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Như vậy có thể thấy quy
luật chung của quá trình vận động, phát triển của nhận thức chính là: từ thực
tiễn đến nhận thức - tái thực tiễn - tái nhận thức - v.v... Quá trình này
không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những
tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách
quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của của nhận thức của con
người trong quá trình phản ánh thực tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận
thức cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của những quy luật chung
trọng phép biện chứng duy vật: quy luật phủ định của phủ định, quy luật
chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự vận động
của quy luật chung trong quá trình vận động, phát triển nhận thức chính là
quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần tới chân lý.
b) Chân lý và vai trò
của chân lý đối với thực tiễn
- Khái niệm chân lý
Mọi quá trình nhận thức
đều sáng tạo ra những tri thức, tức những hiểu biết của con người về thực tế
khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều có nội dung phù hợp với thực tế
khách quan, bởi vì nhận thức thuộc về sự phản ánh của con người đối với thực
tế khách quan đó. Thực tế lịch sử nhận thức của toàn nhân loại cũng như của
mỗi con người đã chứng minh rằng những tri thức mà con người đã và đang đạt
được không phải bao giờ cũng phù hợp với thực tế khách quan; trái lại, có rất
nhiều trường hợp không phù hợp, thậm chí hoàn toàn đối lập với thực tế khách
quan.
Trong phạm vi lý luận
nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái
niệm chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực
tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Theo nghĩa như vậy khái
niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng nhất với
khái niệm giả thuyết (dù là những giả thuyết khoa học), đồng thời, chân lý
cũng là một quá trình. Theo Lênin: "Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách
thể là một quá trình: tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới
dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt
(lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động"[26].
- Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính
tuyệt đối và tính cụ thể.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của
nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp
với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung
của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không
phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức; trái
lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy
định.
Khẳng định chân lý có
tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý
của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri
- là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và
phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó.
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa
nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng
ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không
tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức
được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả năng đó lại
bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng
thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối
tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách
quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách
thể được phản ánh chỉ mới đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một
số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và
chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng
với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tương đối.
Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những
yếu tố của tính tuyệt đối. V. I. Lênin viết: "Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối
là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân
loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa
học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt
đối"[27].
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan
hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý có một ý
nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan
trong nhận thức và trong hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân
lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa
giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối
của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa
tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy
biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.
Ngoài tính khách quan,
tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ thể. Tính cụ thể của
chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối
tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể. Điều đó có
nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể, xác định.
Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn
luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời
gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy,
bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, tức là
có tính cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì những tri
thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần
túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là
chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này V. I. Lênin đã khẳng định: "không có
chân lý trừu tượng", "chân lý luôn luôn là cụ thể”[28]. Việc
nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi
khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm của con người phải
dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch
sử cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo V. I. Lênin: bản
chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ
thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của
quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định[29].
- Vai trò của chân lý đối với thực tiễn:
Để sinh tồn và phát
triển con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn, đó là các hoạt động
cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng qua đó con người thực
hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển
chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát sinh và phát triển hoạt
động nhận thức của con người. Thế nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành
công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn
về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân
lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu
quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân
lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận động,
phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và
thực liễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt
được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về
mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con
người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý
cũng là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý
vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt
động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
Coi trọng tri thức khoa học và tích
cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt động kinh tế - xã
hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát
huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.
|
[1] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 201.
[2] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 26,
tr. 65.
[3] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội, 2004, t. 20, tr. 37
[4]
C. Mác và
Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà
Nội, 2004, t. 20, tr. 38.
[5] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 694.
[6] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 491.
[7] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 492.
[8] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 492.
[9] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 29,
tr. 209.
[10] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 494.
[11] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 22.
[12] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 201.
[13] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 455.
[14] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 23,
tr. 53.
[15] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 42,
tr. 364.
[16] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.71.
[17] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 38.
[18] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 42,
tr. 359.
[19] V. I. Lênin: Toàn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 29, tr. 268.
[20] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 38.
[21] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 29,
tr. 240.
[22] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 20, tr. 173 -174.
[23] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, t. 29,
tr. 245.
[24] C. Mác và Ph.
Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTGQ, Hà Nội,
2004, t. 3, tr. 10.
[25] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981,
t. 18, tr. 161.
[26] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981,
t. 18, tr. 207.
[27] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981,
t. 18, tr. 383.
[28] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980,
t. 42, tr. 364.
[29] V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981,
t. 18, tr. 71.
0 comments:
Đăng nhận xét